"Kẻ Bị Cáo"
Vâng,
chào hết thảy mọi người. Thật là vui khi quay trở lại với quí vị tại Hội thánh Portrush
Presbyterian trong Tuần Lễ Thánh Kinh Hè CPA. Tôi có nhiều kỷ niệm khi sống ở đây,
tôi nghĩ có tới sáu năm rồi, và dự phần vào chức vụ với Mục sư Tom Shaw, ông có
mặt ở đây tối nay – và thật là vui một lần nữa có mặt ở đây dự phần vào chức vụ
với Mục sư Noel Darragh. Tôi thực sự đánh giá cao phần nghiên cứu Lời Đức Chúa
Trời sáng nay, và tôi đang hướng tới phần còn lại của tuần lễ – thường thì những
nhà truyền đạo không ai chịu nép mình dưới chức vụ của người khác, và đây là một
việc mà tôi thực sự hướng tới phần còn lại của tuần lễ.
Tôi đem đến cho quí vị sứ điệp mà tôi tin Đức Chúa Trời muốn tôi giảng
dạy...
Tôi
có mặt ở đây với quí vị để giảng dạy Lời của Đức Chúa Trời vào tuần lễ nầy, và
tôi muốn đưa ra loạt bài nghiên cứu về sách Amốt mỗi tối. Vậy, tôi yêu cầu quí
vị nên mở sách ấy ra, tôi biết chuyện gì xảy ra khi bạn mở ra sách tiểu tiên
tri – ai nấy đều bắt đầu bối rối! Đừng bối rối chứ, khi nhìn vào mục lục của
quyển Kinh thánh, tôi thường bị bối rối – nhưng nếu quí vị bối rối khi nhìn vào
đấy, hãy mở sách Êxêchiên và sách Đaniên, và rồi mở thêm ba
sách nữa sau sách Đaniên thì bạn sẽ lật tới sách tiên tri Amốt. Thế thì quí vị
hết thảy đang làm như thế lúc bây giờ, có phải không?
Giờ
đây tôi sẽ đem đến sứ điệp mà tôi tin Đức Chúa Trời muốn tôi giảng dạy. Tôi có
mặt ở đây vào một ngày lễ cách đây khoảng ba tuần, và Đức Chúa Trời, tôi tin, rất
có ấn tượng trong tấm lòng tôi khi đem đến cho quí vị sự giải bày về sách tiên
tri Amốt. Sẽ có phần ứng dụng Tin Lành ở đây, nhưng chủ yếu tôi rao giảng sứ điệp
có thể áp dụng cho các tín đồ. Tôi đặt đề tựa cho loạt bài nầy là: 'Đức Chúa Trời Công Bình' – và tối nay chúng ta mở
ra ở các chương 1 và 2. Chúng ta sẽ không đọc hết hai chương ấy, nhưng chúng ta
sẽ đọc bốn câu đầu của chương 1, và kế đó từ câu 4 cho đến cuối chương 2.
Amốt
chương 1, và tôi sẽ đọc từ bản dịch hiện có đây: "Lời của A-mốt, người
trong bọn chăn ở Thê-cô-a, là lời đã được soi dẫn cho người về Y-sơ-ra-ên, đang
đời Ô-xia, vua Giu-đa, và đang đời Giê-rô-bô-am, con trai Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên,
hai năm trước cơn động đất. Người nói rằng: Đức Giê-hô-va sẽ gầm thét từ Si-ôn.
Ngài làm cho vang tiếng mình ra từ Giê-ru-sa-lem. Những đồng cỏ của kẻ chăn
chiên sẽ thảm sầu, chót núi Cạt-mên sẽ khô héo. Đức Giê-hô-va phán như vầy: Bởi
cớ tội ác của Đa-mách đến gấp ba gấp bốn lần, nên ta không xây bỏ án phạt khỏi
nó, vì chúng nó đã lấy đồ đập lúa bằng sắt mà đập Ga-la-át. Ta sẽ sai lửa đến
trong nhà Ha-xa-ên, đặng thiêu nuốt đền đài của Bên-Ha-đát". Tiếp đến, nếu quí vị cần phải đọc hết phần còn lại của chương
1, quí vị sẽ nhìn thấy ở câu 6, vị tiên tri của Đức Chúa Trời lặp lại phần phán
xét khác ở một nước khác: "Đức Giê-hô-va phán như
vầy: Bởi cớ tội ác của Ga-xa đến gấp ba gấp bốn lần, nên ta không xây bỏ án phạt
khỏi nó", và
Gaza
thựs sự là người Philitin. Tiếp đến, bạn lần xuống câu 9, thì quí vị sẽ nhìn thấy
lời công bố khác nói tới sự phán xét: "Đức
Giê-hô-va phán như vầy: Bởi cớ tội ác của Ty-rơ đến gấp ba gấp bốn lần, nên ta
không xây bỏ án phạt khỏi nó". Rồi
tới câu 11, một nước khác nữa: "Đức
Giê-hô-va phán như vầy: Bởi cớ tội ác của Ê-đôm đến gấp ba gấp bốn lần, nên ta
không xây bỏ án phạt khỏi nó". Câu 13, một nước khác nữa: "Đức
Giê-hô-va phán như vầy: Bởi cớ tội ác của con cái Am-môn đến gấp ba gấp bốn lần,
nên ta không xây bỏ án phạt khỏi nó".
Đức Chúa Trời, tôi tin, rất
có ấn tượng trong tấm lòng tôi khi đem đến
cho quí vị sự giải bày về
sách tiên tri Amốt...
Chương
2 và câu 1: "Đức Giê-hô-va phán như vầy:
Bởi cớ tội ác của Mô-áp đến gấp ba gấp bốn lần, nên ta không xây bỏ án phạt khỏi
nó". Rồi ở câu 4, vị tiên tri, được Đức
Chúa Trời cảm thúc, xây sang một nước thứ bảy – nước Giuđa, vương quốc phía Nam: "Đức Giê-hô-va phán như vầy:
Bởi cớ tội ác của Giu-đa đến gấp ba gấp bốn lần, nên ta không xây bỏ án phạt khỏi
nó; vì chúng nó đã bỏ luật pháp của Đức Giê-hô-va và không vâng theo lệ luật
Ngài, những sự giả dối mà tổ phụ chúng nó đã theo, làm lầm lạc chúng nó. Ta sẽ sai lửa đến trên
Giu-đa, nó sẽ thiêu nuốt những đền đài của Giê-ru-sa-lem. Đức Giê-hô-va phán như
vầy: Bởi cớ tội ác của Y-sơ-ra-ên đến gấp ba gấp bốn lần, nên ta không xây bỏ
án phạt khỏi nó; vì chúng nó đã bán người công bình lấy bạc, bán kẻ nghèo lấy một
đôi dép. Chúng nó cũng tham cả đến bụi đất trên đầu người nghèo khó, và làm
cong đường của kẻ nhu mì. Con và cha cùng đến chung một đứa gái, như vậy làm
cho ô danh thánh ta. Chúng nó nằm gần mỗi bàn thờ, trên những áo xống đã nhận
làm của tin, và uống rượu của kẻ phải phạt trong miếu thần chúng nó. Dầu vậy,
chính ta đã tuyệt diệt người A-mô-rít trước mặt chúng nó, là thứ người cao bằng
cây bách và mạnh như cây dẻ bộp. Ta đã diệt những trái nó ở trên và những rễ nó
ở dưới. Ta cũng đã đem các ngươi lên khỏi đất Ê-díp-tô, và dắt các ngươi trong đồng
vắng trải bốn mươi năm, hầu cho các ngươi được đất của người A-mô-rít làm sản
nghiệp. Ta đã dấy mấy kẻ tiên tri lên trong vòng con trai các ngươi, và dấy mấy
người Na-xi-rê lên trong vòng bọn trai trẻ các ngươi. Đức Giê-hô-va phán: Hỡi
con cái Y-sơ-ra-ên, chẳng phải vậy sao? Nhưng các ngươi đã cho các người
Na-xi-rê uống rượu, và cấm các kẻ tiên tri rằng: Chớ nói tiên tri! Nầy, ta sẽ
chận ép các ngươi trong nơi các ngươi cũng như cái xe đầy những lúa bó chận ép.
Người lẹ làng sẽ không thể trốn được; người mạnh mẽ sẽ không bổ sức cho mình nữa,
và người bạo dạn sẽ chẳng cứu được mạng sống mình. Kẻ giương cung sẽ chẳng đứng
vững được; kẻ có chân lẹ làng sẽ chẳng lánh khỏi được; người cỡi ngựa sẽ không
thể cứu mình; và kẻ bạo gan trong những người mạnh mẽ sẽ ở trần mà trốn trong
ngày đó, Đức Giê-hô-va phán vậy".
Chúng
ta hãy cầu nguyện trong một phút, và khi chúng ta cầu nguyện với nhau hãy cầu
xin Chúa, nếu quí vị ở trong sự thông
công với Đức Chúa Trời, rằng Ngài hãy phán cùng chúng ta – và nếu quí vị chưa ở
gần Chúa như quí vị muốn, tại sao không đến gần Chúa ngay giờ nầy và cầu xin
Ngài ngự đến và phán dạy trong đời sống của quí vị. Chúng ta cần Đức Chúa Trời,
có phải không? Chúng ta thực sự cần Đức Chúa Trời – một bài giảng sẽ chẳng đủ đâu,
chúng ta cần Thánh Linh của Đức Chúa Trời ngự đến và phục vụ cho mọi lòng chúng
ta. Vì vậy chúng ta hãy cùng nhau hiệp một trong sự cầu nguyện.
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Ngài vì cớ Lời
của Ngài. Chúng con cảm tạ Ngài vì Lời ấy bén hơn gươm hai lưỡi. Lời ấy có khả
năng biện biệt hồn linh cốt tủy, lời ấy là Lời biện biệt tấm lòng của con người.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin trước Lời ấy: Khốn nạn cho tôi, xong đời tôi rồi!'.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Đức Thánh Linh sẽ ngự đến. Ôi Chúa, không có Đức
Thánh Linh, chúng con bất lực, chúng con phí mất không gian và thời gian - nhưng,
lạy Chúa, nếu Ngài ngự đến tối nay và dùng Lời của Ngài và áp dụng Lời ấy cho tấm
lòng chúng con, Lời ấy sẽ tạo ra sự khác biệt cho mỗi một người chúng con trong
vai trò cá nhân và cho hội chúng nầy. Lạy Chúa, đúng là lợi thế lớn lao ở đây tối
nay – và lạy Chúa, sẽ rất là vô ích lắm nếu Ngài không ngự đến, hiển hiện tại
chỗ nầy và giúp đỡ cho mọi lòng chúng con. Lạy Chúa Ngài là thánh, và Đức Chúa
Trời Ngài là công bình, Đức Chúa Trời của ân điển, xin ngự đến và gặp gỡ chúng
con – và gặp gỡ con nữa, lạy Chúa, giờ đây con cầu nguyện – trong danh Chúa
Jêsus, Amen.
Con muốn Ngài đến với con trên chuyến linh trình. Xứ mà chúng con đang
tới đến là xứ Israel ...
Con
muốn Ngài đến với con trên chuyến linh trình. Xứ mà chúng con đang tới đến là xứ
Israel ,
tất nhiên, vào thời điểm nầy trong Kinh thánh, đây là một vương quốc bị chia
hai. Phần phía Bắc, 10 chi phái, nằm ở phía bắc, vương quốc Israel; và Giuđa và
Bêngiamin nằm ở phía Nam, và vì Giuđa là chi phái lớn hơn ở phía Nam được gọi
là 'xứ Giuđa'. Chúng ta sẽ đến với vương quốc Israel phía Bắc,
và đặc biệt thành phố mà chúng ta đến với là Bêtên. 'Nhà của Đức
Chúa Trời' là ý nghĩa của chữ 'Bêtên' – nó có lịch sử rất lẫy
lừng trong Kinh thánh, song vào thời điểm nầy có một Cung Điện của Giêrôbôam II
và thủ phủ tôn giáo riêng của ông ta, và ở đó có một thầy tế lễ riêng nữa là Amaxia.
Đấy là nơi mà chúng ta sẽ đi đến. Thời gian vào khoảng 25 năm trước sự sụp đổ của
vương quốc Israel phía Bắc vào tay xứ sở thuộc phương Bắc là người Asiri – chúng
ta đã nghe nói nhiều về việc ấy sáng nay rồi. Đúng 25 năm trước biến cố kinh
khiếp ấy, người Do thái tại đó trong vương quốc phía Bắc đã bị bắt dẫn tù – song
vào chính thời điểm nầy, 25 năm trước đó, xứ sở Israel thấy mình đang ở trong sự
yên ổn. Có sự thịnh vượng rất lớn, thực vậy chúng ta dám nói rằng dân sự đang sống
trong sự xa hoa. Thêm vào với sự ấy, nếu bấy nhiêu là chưa đủ, có một sở thích được
làm mới lại trong tôn giáo – chúng ta dám nói một kiểu phấn hưng tôn giáo.
Khi
chúng ta hành trình đến đó, sự thờ phượng tôn giáo sắp sửa khởi sự. Chính trong
Cung Điện của nhà vua, Amaxia đang đứng hiên ngang trên hai chơn của mình – ông
ấy sắp sửa khởi sự chương trình, chúng ta sẽ nói – và thình lình giờ phút
thiêng liêng, thánh khiết đột nhiên bị quấy rối bởi một chấn động ở bên ngoài của
dinh thự tôn giáo đó. Đây là những gì quí vị đang nghe thấy: 'Khốn thay cho những kẻ ăn
ở nể trong Siôn!' Một tiếng kêu từ bên ngoài, và khi chúng ta chạy ra xem coi điều
chi đang diễn ra, có một người đứng đó và ông ta cứ kêu la: 'Đức Chúa Trời sẽ làm sự phán xét giáng trên xứ Israel gian
ác nầy!'
Khi quí vị ùa ra để xem điều chi đang diễn ra, quí vị thấy ở đó những điều mà
quí vị không có ngờ, có lẽ, để xem: một nhà truyền đạo quê mùa, mộc mạc chẳng
ai mời, thực sự ông ta là một nông dân, một kẻ chăn bầy, một gã chăn chiên đến
từ Thêcoa, cách thành thánh Jerusalem chừng 11 dặm đường.
Tên
của người nầy là Amốt. Tên của ông ta thực sự có nghĩa là 'gánh nặng'. Ông ta không phải là một tiên tri chuyên nghiệp
đâu, ông ta không phải là con của tiên tri, ông ta không tốt nghiệp từ một trường
đào tạo tiên tri nào hết. Thực vậy, nếu quí vị cùng tôi mở ra ở chương 7, chúng
ta thực hiện việc nầy vào tối thứ Bảy, song vì ích cho những ai không có mặt
vào buổi tối khai mạc ấy, chúng ta thấy rằng Amốt nói về bản thân mình, chương 7
và câu 14: 'Ta
không phải là đấng tiên tri, cũng không phải con đấng tiên tri; nhưng ta là một
kẻ chăn, sửa soạn những cây vả rừng. Đức Giê-hô-va đã bắt lấy
ta từ sau bầy, và Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng: Hãy đi nói tiên tri cho dân
Y-sơ-ra-ên ta''. Ông ấy đúng là một nông dân, nhưng ông là người của Đức
Chúa Trời, là người mà Đức Chúa Trời đã kêu gọi, với sứ điệp của Đức Chúa Trời -
và, quí vị biết đấy, đấy là cách thức Đức Chúa Trời thường vận hành. Ngài chọn
hạng người tầm thường, thường thì Ngài tìm gặp họ ở những công việc tầm thường,
và Ngài chọn hạng người tầm thường đó để lo làm những việc phi thường trong vương
quốc của Ngài và vì sự vinh hiển của Ngài.
Đức Chúa Trời có thể làm một việc quan trọng với đời sống của quí vị
nếu bạn chịu trao đời sống của quí vị vào hai bàn tay của Ngài, nếu quí vị chịu
lắng nghe tiếng phán của Ngài, nếu quí vị chịu lắng nghe tiếng kêu gọi của
Ngài, nếu quí vị chịu vâng theo...
Chúng
ta có thể nhìn vào những nhân vật vĩ đại khác từ Kinh thánh, chính xác thì họ
là như thế đấy, thậm chí là nông dân. Môise, quí vị có nhớ không, ông đang chăn
bầy chiên trong hoang mạc Mađian khi Đức Chúa Trời hiện ra cùng ông tại bụi gai
cháy rồi kêu gọi ông trở thành đấng cứu tinh của dân Israel đang sống trong
vòng nô lệ tại xứ Aicập. David đang lo chăn bầy và khi ông được kêu gọi để trở
thành Vua của Israel – và đấy vẫn còn là phương thức của Đức Chúa Trời! Đúng là
một sự khích lệ! Chúng ta đọc trong Tân Ước, ở I Côrinhtô 1: 'Đức
Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những kẻ khôn; Đức
Chúa Trời đã chọn những sự hèn hạ và khinh bỉ ở thế gian, cùng những sự không
có, hầu cho làm những sự có ra không có'. Giờ đây, tôi không biết quí vị là ai tối nay, và
tôi không biết quí vị cảm thấy bản thân mình vô nghĩa đến dường nào, tôi không
biết công ăn việc làm của quí vị mỗi ngày là gì, nếu quí vị có việc làm – nhưng
Đức Chúa Trời có thể làm một việc quan trọng với đời sống của quí vị nếu quí vị
chịu trao đời sống của quí vị vào hai bàn tay của Ngài, nếu quí vị chịu lắng
nghe tiếng phán của Ngài, nếu quí vị chịu lắng nghe tiếng kêu gọi của Ngài, nếu
quí vị chịu vâng theo. Không phải là thứ chi quí vị có thể dâng lên cho Đức
Chúa Trời đâu, mà là những gì Đức Chúa Trời cao cả của thiên đàng có thể làm với
sự bằng lòng của quí vị kìa.
Amốt
không được nhắc tới ở bất kỳ chỗ nào khác trong Kinh thánh, tuy nhiên ông là người
của Đức Chúa Trời. Ông đã đến với Bêtên để rao giảng sứ điệp của Đức Chúa Trời,
đó là: 'Sự phán
xét đang giáng xuống cho Israel'. Bây giờ, chúng ta sẽ dừng lại ở đây trong một
phút rồi đưa ra thắc mắc: tại sao sự phán xét lại giáng xuống Israel chứ? Bộ
tôi chưa nói là họ đã sống rất giàu có sao? Và họ đã sống rất giàu có, và trong
thời buổi ấy họ đã xem sự giàu có đó tương đương với phước hạnh của Đức Chúa Trời
– và đấy thường là trường hợp trong giao ước Cũ. Nhưng con cái của Israel không
nhìn biết rằng Đức Chúa Trời đang chúc phước cho họ bất chấp tội lỗi của họ. Sự
giàu có của họ vốn hiển nhiên bất chấp mọi sự phạm phép của họ nghịch lại Đức Chúa
Trời. Bộ tôi chưa nói trên đây rằng đã có một loại phấn hưng theo kiểu tôn giáo
sao? Phải, tôi có nói đấy, nhưng cái điều Amốt dạy chúng ta, ấy là tôn giáo chỉ
là bề ngoài, tôn giáo rất nông cạn – chúng ta dám nói tôn giáo là giả hình nữa
kìa. Lý do tại sao Amốt đã làm theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời để rao giảng sự
phán xét nghịch lại những gì chúng ta đã nói là tình trạng rất thành công về mặt
kinh tế và về mặt truyền giáo, sở dĩ như thế là vì đức tin của họ không tác động
vào đời sống của họ.
Họ
làm ra tiền, và tạo ra nhiều ồn ào và nhiệt thành về mặt tôn giáo, tuy nhiên họ
không thờ lạy Đức Chúa Trời bằng tâm thần và theo lẽ thật. Thực vậy, làm ra tiền
đã trở thành quan trọong đối với họ hơn là thờ lạy Đức Chúa Trời. Nếu quí vị
nhìn vào chương 8 trong một phút đi, và ở câu 5, chúng ta nhìn thấy điều đó đã được
nhấn mạnh rõ nét. Chương 8 và câu 5: 'Các ngươi nói rằng: Khi nào trăng mới sẽ
qua, cho chúng ta có thể bán lúa miến, và ngày sa-bát qua, đặng chúng ta mở kho
lúa mì, mà bớt ê-pha, thêm nặng siếc-lơ, và dùng cân dối giả đặng phỉnh gạt?’ Quí vị thấy đấy, dân sự
của Đức Chúa Trời đang làm giàu, và với sự giàu có ấy họ đâm ra tự mãn và sống
rất xác thịt. Người giàu ngày càng giàu thêm, họ đang đã bóc lột kẻ nghèo; còn
kẻ nghèo trong xứ chẳng có gì để bảo vệ mình. Sự bất công đang tràn lan, và vì
vậy vị tiên tri của Đức Chúa Trời, Amốt, đã được sai phái đến để rao giảng một
sự khải thị nói tới Đức Chúa Trời của sự công bình.
Thảm
hoạ lớn lao cho Israel, ấy là tội lỗi của Israel cũng y chang như tội lỗi của
nhiều nước khác. Cho phép tôi nhắc lại nhé: tội lỗi của Israel cũng y như tội lỗi
của các nước vây quanh. Nếu chúng ta có thể hình dung ra mình được Amốt dẫn vào
phiên toà của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời công bình, cái điều mà quí vị sẽ
nghe thấy tối nay trong sứ điệp là 'Kẻ Bị Cáo'. Đức Chúa Trời đang chỉ ra kẻ bị cáo là ai
trong phiên toà của Ngài. Trước hết, Amốt khởi sự sứ điệp của ông bằng cách
nhìn quanh các nước đang ở xung quanh Israel và Giuđa, rồi công bố sự phán xét
trên sáu nước đó. Nhưng trước khi ông làm vậy, và chúng ta hãy nhìn vào đấy, hãy
nhìn vào lời giới thiệu của ông ở câu 2. Ông nói: 'Đức GIÊHÔVA', Đức GIÊHÔVA, 'gầm thét từ Siôn, Ngài
làm cho vang tiếng mình ra từ Jerusalem', và ông mô tả, ông tỏ ra Đức Chúa Trời
giống như con sư tử đang gầm rống trong cơn thạnh nộ của Ngài. Thực vậy, ở chương
3 câu 8, quí vị lại thấy hình ảnh ấy một lần nữa: 'Sư tử gầm thét! Thì ai mà chẳng sợ? Khi
Chúa Giê-hô-va đã phán dạy, thì ai mà chẳng nói tiên tri? ' Có bao giờ quí vị hình
dung Đức Chúa Trời giống như con sư tử đang gầm thét trong cơn thạnh nộ của
Ngài không?
Quí vị có biết chuyện gì không? Đức Chúa Trời đang gầm thét hôm nay.
Ngài đang gầm thét nghịch lại thế giới Tây phương...
Quí
vị có biết chuyện gì không? Đức Chúa Trời đang gầm thét hôm nay. Ngài đang gầm
thét nghịch lại thế giới Tây phương đang sống trong hoà bình, thế giới Tây phương
đang lên tới cổ của nó với chủ nghĩa tư bản và đang giàu có và thịnh vượng, thế
giới Tây phương đang sống trong sự xa hoa. Đức Chúa Trời đang gầm thét với hạng
người giàu có, và phần nhiều người trong số đó đang đắm mình với đủ thứ tôn
giáo! Đức Chúa Trời đang gầm thét với một dân ở phương Tây, thậm chí với người
nắm lấy danh của Đấng Christ, họ sở hữu sự giàu có, và họ có tôn giáo, nhưng không
tác động vào đời sống của họ để tạo ra bất kỳ sự khác biệt nào trong các cộng đồng
mà họ đang sinh sống trong đó – một dân mà nơi họ việc làm ra tiền bạc đã trở
nên quan trọng hơn là sự thờ lạy Đức Chúa Trời! Đức Chúa Trời của sự công bình đang
gầm thét, bạn có nghe thấy Ngài chăng? Ngài đang gầm thét để kéo sự chú ý của
các nước trong thế giới hiện đại của chúng ta, y như Ngài đã làm với các nước ở
chung quanh Israel trong thời của Amốt – song chẳng có ai chịu lắng nghe hết! Có
thể đấy là lý do tại sao quí vị không thể nghe được Ngài tối nay.
Kinh
thánh nói ở đây, trong câu 2: 'Ngài làm cho vang tiếng mình ra từ Jerusalem' – điều nầy rất quan trọng
đấy. Amốt đứng ở đâu vậy? Ông đã lên phía Bắc trong xứ Israel, ông cư ngụ ở
Bêtên mà. Thành Jerusalem nằm ở phía Nam xứ Giuđa. Những điều Amốt đang thốt ra
là: mặc dù Israel là Vương quốc phía Bắc, họ đã thiết lập tôn giáo riêng của họ,
các trung tâm thờ phượng tôn giáo riêng của họ ở Đan, Bêtên và Ghinh ganh, họ đã
nghĩ ra cách riêng hòng tiếp cận với Đức Chúa Trời, song vị tiên tri của Đức
Chúa Trời đang nhắc cho thứ dân nầy nhớ rằng Đức Chúa Trời vốn không thay đổi. Họ
có thể thay đổi địa điểm, họ có thể thay đổi các xu hướng để rồi họ có cảm nhận
như mình đang thờ lạy Đức Chúa Trời, nhưng Đức Chúa Trời vốn không thay đổi – Ngài
hãy còn gầm thét từ thành Jerusalem! Đúng là một sứ điệp dành cho thế giới mà
chúng ta đang sinh sống trong đó. Tôi tin Đức Chúa Trời sẽ nhắc cho các nước
xung quanh thế giới của chúng ta nhớ rằng mọi con đường không dẫn tới Đức Chúa
Trời đâu. Có áp lực lớn cho chúng ta hôm nay trong thế kỷ 21 để chấp nhận sự dạy
ấy. Chúng ta đang sống trong một xã hội thiên về số nhiều, thiên về chính trị –
nhưng Đức Chúa Trời đang gầm thét hôm nay, vẫn gầm thét từ thành Jerusalem, và Đức
Chúa Trời thánh khiết nầy mà chúng ta đang lắng nghe vào các buổi sáng, Đức
Chúa Trời công bình nầy, Ngài vẫn là một Đức Chúa Trời ghen tương, Ngài sẽ chẳng
để một thần nào khác đứng trước mặt Ngài. Đấy là điều răn thứ nhứt, và quí vị
biết rõ đấy là sự dạy của Tân Ước – I Timôthê 2:5: 'Vì
chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung bảo ở giữa Đức Chúa Trời và
loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, là người'.
Phải,
Amốt bắt đầu từng bản cáo trạng của ông với tư thế nầy. Nếu quí vị nhìn vào
Kinh thánh, quí vị thấy ngay ở câu 3 của chương 1 và phần còn lại của sự phán
xét nghịch lại các nước nầy, ông nói: 'Bởi cớ tội ác đến gấp
ba gấp bốn lần, nên ta không xây bỏ án phạt khỏi nó'. Giờ đây, đấy là một lối
nói thật kỳ lạ, 'Bởi cớ tội ác đến gấp ba gấp bốn lần’, và thực sự chúng ta gọi
đấy là một câu thành ngữ, một sự phát biểu bằng ngôn ngữ không nói chính xác. Cho
nên, cái điều Amốt không nói ấy là những nước nầy mỗi nước đều phạm ba hay bốn
tội ác, đây là một thuật ngữ được sử dụng cho một số tội ác không xác định được
rồi sau cùng đi đến phần kết thúc. Thực vậy, Kinh thánh dạy rằng các nước có một
chén thạnh nộ ở trước mặt Đức Chúa Trời, và cơn thạnh nộ ấy đến tới chỗ đầy
tràn, khi ấy Đức Chúa Trời mới thực thi
sự phán xét. Chúng ta ngợi khen Đức Chúa Trời vì Ngài rất kiên nhẫn, song cách
phát biểu như thế nầy dạy cho chúng ta biết rằng ngay cả sự nhịn nhục của Ngài
cũng phải đến tới chỗ chấm dứt. Quí vị thấy đấy, thử sự kiên nhẫn của Đức Chúa
Trời là thử Chúa, và khi chúng ta thử sự kiên nhẫn của Đức Chúa Trời và thử
Chúa, chúng ta đang mời gọi sự phán xét. Tôi hy vọng chẳng có ai ở đây tối nay,
trở thành người đang lang thang, hãy đến với một người bạn và quí vị chưa phải
là một Cơ đốc nhân, và quí vị đã nghe giảng Tin Lành rất rất nhiều lần, hoặc có
thể quí vị đang ở trong tình trạng tái phạm, và quí vị đang thử sự kiên nhẫn của
Đức Chúa Trời, quí vị đang thử Đức Chúa Trời đấy. Quí vị có biết mình đang làm
việc gì chăng? Quí vị đang mời gọi sự phán xét của Ngài. Giống như thể quí vị đang
nói, giống như một cầu thủ trên sân bóng: 'Nào! Nào,
hãy chận banh tôi đi!'
Vì
vậy Đức Chúa Trời, qua Amốt, công bố, trước hết là với Syria, sự phán xét ở các
câu 3 đến câu 5 của chương 1, và Ngài đang tố cáo họ về tính độc ác trong chiến
tranh. Điều nầy được ám chỉ bằng lối nói như thế nầy 'chúng nó lấy đồ đập lúa
bằng sắt'. Khi ấy, Ngài phán với Gaza ở các câu 6 - 8, Philistia, người Philitin,
và Ngài xét đoán họ vì tội lỗi chế độ nô lệ. Tiếp đến Ngài phán ở các câu 9 -
10 với Tyrơ, là người Phênixi, và Ngài xét đoán họ vì tính độc ác của chế độ nô
lệ. Rồi Ngài phán với kẻ thù xưa của Israel, là Êđôm, ở các câu 11 - 12, rồi tố
cáo họ vì không tỏ ra lòng thương xót, cứ khăng khăng giữ lấy sự thù hằn liên tục.
Tiếp đến, Ngài phán ở các câu 13 - 15 với dân Ammôn, họ bị xét đoán vì sự cay đắng
ác độc và tham lam ích kỷ. Rồi ở chương 2 các câu 1 -3 Ngài phán với Môáp, và
Ngài xét đoán họ vì sự độc ác nghịch lại Êđôm. Bây giờ, điều nầy là thú vị đây,
vì Ngài đã xét đoán Êđôm rồi vì sự độc dữ của họ, nhưng chúng ta dám nói: 'Hai đúng không tạo ra một sai' – và đúng là có một bài
học ngay ở đây! Êđôm phạm tội ác độc, nhưng điều đó không hợp pháp hoá tội ác
nghịch lại họ. Quí vị thấy đấy, cái điều Amốt đang truyền đạt ở đây là: Đức
Chúa Trời là một Đức Chúa Trời công bình. Ngài là công bình, Ngài không thiên vị,
Ngài phải phán xét tội lỗi. Khi ấy Ngài đến với Giuđa ở các câu 4 - 5, và Ngài
xét đoán họ vì đã chối bỏ luật pháp của Đức Chúa Trời.
Chúng ta cần phải học biết về Đức Chúa Trời công bình,
Ngài đang chú ý đến mọi điều đang diễn ra trên các nước thuộc thế
gian nầy...
Bây
giờ, trước khi chúng ta nhìn vào lời công bố của Ngài cho Israel, chúng ta hãy
tiếp thu một vài nguyên tắc ở đây từ những gì chúng ta đã xét qua rồi. Trước hết,
chúng ta cần phải tiếp thu về Đức Chúa Trời công bình, rằng Ngài đang chú ý đến
mọi điều đang diễn ra trên các nước thuộc thế gian nầy. Trước khi công bố sự
phán xét giáng trên xứ Giuđa và Israel, Amốt loan báo sự phán xét giáng trên
sáu quốc gia dân Ngoại. Giờ đây, làm ơn hãy nhớ cho, Đức Chúa Trời đã không ban
bố luật pháp của Ngài – quí vị sẽ nói đấy là “10 Điều Răn”, năm sách đầu tiên của
Kinh thánh – Ngài không ban chúng cho các dân Ngoại. Ngài đã ban chúng cho
Israel là tuyển dân của Ngài – tuy nhiên, Ngài vẫn mong các nước thuộc thế gian
phải trách nhiệm về tội lỗi chống lại nhân loại của họ. Chúng ta đáng được tha
thứ khi suy nghĩ rằng trong Cựu Ước Đức Chúa Trời chỉ nhắm duy nhứt vào Israel và
Giuđa mà thôi, và đấy là trường hợp cho một mức độ lớn – ở câu 4 chương 2, Ngài
kết án Giuđa vì chẳng màng đến luật pháp của Ngài, ở chương 2 các câu 9 - 12 Ngài
kết án Israel vì bất chấp tình yêu của Ngài dành cho họ, tình yêu giao ước của
Ngài – nhưng Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của mọi loài xác thịt! Ngay cả các
dân Ngoại ở xung quanh Israel và Giuđa, Đức Chúa Trời đang kết án họ vì tội lỗi
và vì họ đang phá vỡ luật pháp của Ngài – mặc dù họ không có hai bảng đá với 10
Điều Răn, Đức Chúa Trời đã viết ra mọi đòi hỏi và trông mong của luật pháp Ngài
trên bảng lòng của họ.
Hãy
cùng tôi mở ra ở Rôma chương 2, đặng quí vị có thể xem bằng chính mắt của mình.
Rôma chương 2 và câu 11, Phaolô viết ra ở đó trong Rôma 2:11-15, đúng là câu
khai mào cho lẽ đạo nầy: 'Vì trước mặt Đức Chúa Trời, chẳng vị nể ai
đâu. Phàm
những kẻ không luật pháp mà phạm tội, cũng sẽ không luật pháp mà hư mất; còn những
kẻ có luật pháp mà phạm tội, thì sẽ bị luật pháp đoán xét; (Vì
chẳng phải kẻ nghe đọc luật pháp là người công bình trước mặt Đức Chúa Trời,
bèn là kẻ làm theo luật pháp được xưng công bình vậy. Vả,
dân ngoại vốn không có luật pháp, khi họ tự nhiên làm những việc luật pháp dạy
biểu, thì những người ấy dầu không có luật pháp, cũng tự nên luật pháp cho mình, Họ
tỏ ra rằng việc mà luật pháp dạy biểu đã ghi trong lòng họ: chính lương tâm
mình làm chứng cho luật pháp, còn ý tưởng mình khi thì cáo giác mình, khi thì
binh vực mình)'. Quí vị thấy đấy, người ta sống xung quanh chúng ta, họ chưa
được biến đổi, họ không nhìn biết Đức Chúa Trời, họ chẳng phải là dân sự của Đức
Chúa Trời, theo bản năng không những họ nhìn biết điều nào là xấu, mà họ còn
nhìn biết điều nào là tốt nữa. Họ làm theo điều xấu thường xuyên hơn là họ làm
theo điều tốt, nhưng họ nhìn biết đấy, với lương tâm mà Đức Chúa Trời đã ban bố
cho họ và luật pháp đã được ghi ra nơi người bề trong – và vì vậy hết thảy các
nước thuộc thế gian cần phải ngồi lại rồi nhìn biết Đức Chúa Trời đang chú ý mọi
việc đã được làm ra, mọi việc đã được cam kết, cả về mặt dân tộc và, quí bạn tối
nay ơi, cả về mặt cá nhân nữa. Nếu quí vị có mặt trong hội chúng nầy, quí vị cần
phải biết rõ Đức Chúa Trời đang chú ý đến cách thức bạn đã phá vỡ luật pháp của
Ngài.
Về
mặt dân tộc, đấy là sứ điệp đáng sợ dành cho các quốc gia và vương quốc thuộc
thế giới của chúng ta, vì các nước vốn nghèo ngặt về nhân quyền như Trung Hoa, rằng
xứ sở chúng ta và các quốc gia phương Tây đang thoải mái dễ chịu hơn. Những quốc
gia chuyên chế khác, các nước phạm tội diệt chủng, và tội diệt chủng, cùng chủ
nghĩa khủng bố được nhà nước bảo trợ. Những nhà nước nào đang phạm tội ác chiến
tranh giáng trên binh lính, các thế lực và dân sự. Các nước về mặt văn hoá có một
hệ thống đẳng cấp, hay chủ nghĩa phân biệt chủng tộc theo kiểu địa phương hoặc được
thể chế hoá, hoặc chủ nghĩa bè phái, hay phân biệt đối xử, hoặc ngược đãi với
quyền lực chính trị. Hay ngay cả trong phong cách xã hội tự do của chúng ta, phải
nói như thế, việc giết trẻ vô tội khi phá thai và sự hủy diệt hàng loạt phôi người
– Đức Chúa Trời công bình ở trên trời đang chú ý! Việc ấy không qua khỏi mắt
Ngài đâu. Đúng là trường hợp về mặt quốc gia mà cũng là trường hợp của từng cá
nhân nữa. Quí bạn tôi ơi, quí vị đã nhận lãnh một lương tâm, và lương tâm ấy
cho quí vị biết đâu là sai quấy và cảnh báo quí vị về cách xử sự sai trái và
phi đạo đức – và nếu quí vị bất chấp nó, Đức Chúa Trời đang ghi sổ và quí vị sẽ
trả lời với Đức Chúa Trời một ngày kia! Đây đúng là một bài học dành cho chúng
ta trong xã hội hiện đại của chúng ta, rằng Đức Chúa Trời công bình nầy đang
ghi sổ những gì hiện diễn ra trong các nước, và những gì đang diễn ra trong các
gia đình, và trong những đời sống.
Đức Chúa Trời công bình nầy đang tính sổ với các nước.
Ngài không nhắm mắt làm ngơ đâu…
Bài
học thứ hai, ấy là Đức Chúa Trời công bình nầy đang tính sổ với các nước. Ngài
không nhắm mắt làm ngơ đâu. Bậc vua chúa, tổng thống, thủ tướng, các tướng lãnh
quân sự, những nhà chính trị, các chính khách, hết thảy đều phải trình sổ với Đức
Chúa Trời ở trên trời. Chúng ta đọc trong sách Sáng thế ký thấy rằng Ápraham không
thể vào trong Đất Hứa ở điểm nầy vì tội lỗi của dân Amôrít chưa được đầy trọn –
cái chén thạnh nộ dành cho dân Ngoại chưa được đầy trọn. Đức Chúa Trời tính sổ
với các nước ngay chính ngày nầy, và tôi lấy làm lạ, và tôi hỏi quí vị một câu
nhé: đâu là giới hạn tội lỗi dành cho xứ sở của chúng ta? Đâu là quota dành cho
Vương quốc Thống Nhất của chúng ta hay cho đảo Ái nhĩ Lan nầy, “quota tội lỗi” trước khi Đức Chúa Trời sẽ đến với sự phán xét?
Hoặc tôi có thể đưa ra câu hỏi nầy: Sự phán xét đã khởi sự rồi chăng? Tôi tin
là như thế.
Bài
học thứ ba, ấy là Đức Chúa Trời công bình nầy đang xét đoán các nước khi việc ấy
đẹp lòng Ngài. Quí vị thấy đấy, mỗi lần Ngài đưa ra một án phạt cho các nước bị
kết án ở đây, Ngài lặp đi lặp lại câu nói nầy – hãy nhìn vào câu đấy xem, quí vị
sẽ thấy ở câu 3 chương 1 như thế nầy đây: 'Ta không xây bỏ án phạt khỏi nó, Ta sẽ sai lửa đến' – Ta không xây bỏ án phạt
khỏi nó, Ta sẽ sai lửa đến. Bạn có biết không, Đức Chúa Trời của chúng ta là đám
lửa hay thiêu đốt – và rõ ràng đấy là một câu trong Tân Ước. Phải, hãy ngợi
khen Đức Chúa Trời vì cớ Tin Lành, và là hạng tín đồ của Tân Ước trong giao ước
mới, là những kẻ dự phần vào giao ước ấy, chúng ta tôn cao ân điển của Đức Chúa
Trời. Chúng ta là những tín đồ Tin Lành theo Kinh thánh, chúng ta xem trọng thập
tự giá, chúng ta nói tới huyết đổ ra, chúng ta công nhận sự chuộc tội và sự xưng
công bình qua sự hy sinh rất hiệu quả để tội lỗi của chúng ta – như phương Đông
xa cách phương Tây bao nhiêu, chúng được chôn vùi trong đại dương tha thứ của Đức
Chúa Trời. Đấy là những gì chúng ta đang ấp ủ và chúng ta ca hát, và Ngài đã sống
lại vào ngày thứ ba để xưng công bình cho chúng ta và cho hết thảy những ai chịu
tin theo – nhưng sự công bình và sự thánh khiết của Đức Chúa Trời vẫn y nguyên!
Đức Chúa Trời không thôi là công bình, và khi Ngài tự tỏ mình ra cho Môise, quí
vị nhớ lại ở Xuất Êdíptô ký 34, đây là cách Ngài bày tỏ ra Thân vị của Ngài: 'Ngài
đi ngang qua mặt người, hô rằng: Giê-hô-va! Giê-hô-va! là Đức Chúa Trời nhân từ,
thương xót, chậm giận, đầy dẫy ân huệ và thành thực, ban
ơn đến ngàn đời, xá điều gian ác, tội trọng, và tội lỗi'' – nhưng hãy lắng nghe
câu nầy - 'nhưng
chẳng kể kẻ có tội là vô tội, và nhân tội tổ phụ phạt đến con cháu trải ba bốn đời''. Đây là phản ứng của
Môise trước sự mặc khải đó: 'Môi-se lật đật cúi đầu xuống đất và thờ lạy'.
Tôi
không biết quí vị có biết hay không, nhưng đạo Tin Lành hôm nay đã chứng kiến cơn
phấn hưng của cái điều mà chúng ta từng nhận biết là “thuyết phổ độ” [universalism]. Nghĩa là, cuối cùng mọi
người đều sẽ được cứu vì Đức Chúa Trời quá yêu thương, Đức Chúa Trời tha thứ dồi
dào – và đúng như thế, mặc dù chúng ta tôn cao ân điển của Đức Chúa Trời, sự
tha thứ của Ngài, và nếu quí vị chưa trở lại đạo, quí vị có thể bởi đức tin đơn
sơ nhận biết sự biến đổi kỳ diệu của ân điển ấy tối nay – song nhận định cho rằng
mọi người chắc chắn sẽ được cứu là một nhận định mất cân đối, phi Kinh thánh về
Đức Chúa Trời nầy. Đức Chúa Trời là công bình. Nếu Amốt dạy dỗ điều gì, thì đây
là điều đó. Nhưng có phải quí vị nhận biết đây là một sự kiện rất nghiêm túc
dành cho chúng ta trong vai trò một quốc gia tối nay hay không? Xứ sở của chúng
ta đang phạm phải nhiều thứ tội mà các nước nầy đã phạm phải. Tôi tự hỏi không
biết tôi có cần phải yêu cầu quí vị đưa ra bảng danh sách những tội lỗi hay
không, chúng sẽ như thế nào đối với quí vị đây? Tham lam – quí vị chỉ phải kể
ra những chủ ngân hàng thiên về tội ấy thôi. Thừa thải trong từng suy tưởng, đồ
ăn, thức uống, thuốc men. Việc khai thác dễ làm tổn thương lắm đó. Tình trạng dễ
dãi về tình dục, và đồi trụy về tình dục được xem trọng. Chúng ta có thể ghi ra
nhiều thứ nữa, nhưng chúng ta không có thì giờ đâu.
Tôi tự hỏi không biết tôi
có cần phải yêu cầu quí vị đưa ra bảng danh sách những tội lỗi hay không, chúng
sẽ như thế nào đối với quí vị đây?
Giờ
đây, hãy đến với câu 5 chương 2, mục tiêu là nhắm vào sáu nước dân Ngoại, và kế
đó là nước Giuđa, vương quốc phía Nam. Dân Israel ở Bêtên vốn rất hài lòng khi
thấy Amốt xét đoán các dân Ngoại ô uế và những kẻ phương Nam xứ Giuđa, nhưng rồi
ông đổi giọng, ông xây về những kẻ phía Bắc xứ Israel. Ông bắt đầu rao giảng rằng
tội lỗi của Israel cũng y như tội lỗi của các nước và tội lỗi của xứ Giuđa, và
sự phán xét thứ tám của ông đảo lại cho Israel. Hãy nhìn vào câu 6 xem: 'Đức Giê-hô-va phán như vầy:
Bởi cớ tội ác của Y-sơ-ra-ên đến gấp ba gấp bốn lần, nên ta không xây bỏ án phạt
khỏi nó'. Đức Chúa Trời của chúng ta là Đức Chúa Trời công bình. Giờ đây,
hãy chờ đợi điều nầy, hỡi Cơ đốc nhân, hãy ngồi nơi mép ghế của quí vị đi: Đức
Chúa Trời của chúng ta, khi Ngài tìm gặp chính những tội lỗi cố ý nơi dân sự
Ngài, Ngài xét đoán họ. Họ bị sốc, có thể giống như quí vị bị sốc tối nay, khi
nghe một sứ điệp như thế. Thực vậy, tôi muốn nói sâu xa hơn, trên cơ sở của quyển
sách nầy và các sách tiên tri khác, thực ra Đức Chúa Trời vốn nghiêm khắc đối với
tuyển dân của Ngài, là Israel và Giuđa, vì cớ địa vị được ơn của họ. Đặc ân dẫn
tới trách nhiệm! Họ đã ở trong giao ước với Đức Chúa Trời, các dân Ngoại thì
không được như thế. Luật pháp của Đức Chúa Trời là cơ sở cho hôn nhân đó trong
giao ước, dầu vậy dù là cách nầy hay thế khác Israel đã phá vỡ một trong 10 Điều
Răn và đã bất chấp pháp độ của Đức Chúa Trời. Có một nguyên tắc ở đây: Đức Chúa
Trời đang đến với họ với sự phán xét, và nếu Đức Chúa Trời xét đoán kẻ bị mất, các
nước chung quanh, vì những sự bất công và phá vỡ điều răn, là tội lỗi của họ; Ngài
sẽ làm gì với những kẻ tự xưng là nhìn biết Ngài?
Ồ
quí bạn của tôi ơi, đúng là một sứ điệp mà Amốt đem đến cho hội thánh. Mỗi đặc
ân đều có phần trách nhiệm. Chúa Jêsus phán: 'Ai được ban cho nhiều, sẽ bị đòi lại nhiều’. Ở đâu có trách nhiệm, cũng
sẽ phải tính sổ. Quí bạn của tôi ơi, e quí vị nghĩ rằng tôi bị kẹt đâu đó khi
phân phát không đúng phần Cựu Ước, đây là sự dạy của Tân Ước. Vì khi quí vị đến
đến với thư tín Phaolô viết cho hội thánh tại thành Côrinhtô, thì quí vị nhìn
thấy những việc mà họ phải nghĩ đến – ồ phải, họ là hạng thánh đồ của Đức Chúa
Trời, họ đã ở trong mối quan hệ, trong giao ước với Đức Chúa Trời nhờ Đức Chúa
Jêsus Christ – tuy nhiên, họ đã phạm tội, tội phi luân về tình dục, Phaolô nói,
tội ấy còn không thấy nói tới giữa vòng những kẻ vô tín dân Ngoại nữa kìa! Thế
mà họ đã dung chịu, thứ tội lỗi đã được dung chịu trong hội thánh – nhưng khi
nhìn vào sự phán xét của Đức Chúa Trời, hãy lắng nghe đi: 'Vậy
mỗi người phải tự xét lấy mình, và như thế mới ăn bánh uống chén ấy. Vì
người nào không phân biệt thân Chúa mà ăn bánh uống chén đó, tức là ăn uống sự
xét đoán cho mình. Ấy vì cớ đó mà trong anh em có nhiều kẻ tật
nguyền, đau ốm, và có lắm kẻ ngủ. Nếu chúng ta biết xét đoán
lấy mình, thì khỏi bị xét đoán. Song khi chúng ta bị
Chúa xét đoán, thì bị Ngài sửa phạt, hầu cho khỏi bị án làm một với người thế
gian'.
Quí
vị có nhìn thấy vấn đề chưa? Thực ra, phải chăng có ít khác biệt ở nhiều lãnh vực
ngày nay giữa hội thánh và thế gian? Tôi có thể nói cho bạn biết tốt hơn thế
không? Có nhiều lúc, hội thánh, và những ai gọi theo danh Đấng Christ, đang sống
rất tệ hại! Sự thực đúng như thế trong thời của Amốt, và tôi e rằng trong thời
của chúng ta sự thể cũng y như thế thôi. Ở câu 6 cho đến câu 16 vị tiên tri kể
ra những tội lỗi của Israel, chúng ta hãy mau mau nhìn vào đấy. Một, tội lỗi đầu
tiên được tìm thấy ở câu 6, phần cuối của câu ấy, và phần khởi sự của câu 7: 'vì chúng nó đã bán người
công bình lấy bạc, bán kẻ nghèo lấy một đôi dép. Chúng nó cũng tham cả đến bụi đất
trên đầu người nghèo khó'. Họ bị cáo giác về tội hối lộ và tham lam. Tôi
không biết rõ phần lớn nhiều người đang có mặt ở đây, nhưng có dám nói tới những
Cơ đốc nhân ngày nay rằng các thương vụ của họ là ngay thẳng không? Họ có nộp
thuế và không có lừa đảo chăng? Chúng ta có giữ lời trong mọi dịch vụ của chúng
ta không? Có phải đạo đức kinh doanh của chúng ta cao tột hơn đạo đức của những
người đang sinh sống quanh chúng ta không? Là chủ nhân, quí vị đối xử với công
nhân của mình như thế nào vậy? Là công nhân, quí vị xử sự thế nào với chủ nhân
của mình? Dân sự của Đức Chúa Trời trong thời của Amốt, chẳng có sự khác biệt
nào giữa họ với người thế gian – phải chăng đấy là chỗ mà chúng ta đang hướng tới?
Thực ra, phải chăng có ít
khác biệt ở nhiều lãnh vực ngày nay giữa hội thánh và thế gian?
Không
những họ bị cáo về tội hối lộ và tham lam, mà chúng ta còn thấy ở câu 7, phần
cuối: 'Chúng nó …
làm cong đường của kẻ nhu mì. Con và cha cùng đến chung một đứa gái'. Họ phạm tội tà dâm và
ham mê sắc dục, cha và con đều cùng đến với cùng những cô gái điếm. Chắc chắn đạo
đức về tình dục trong hội thánh và các tín đồ đương kim phải cao tột hơn đạo đức
của người thế gian? Quí vị sẽ mong mỏi những người làm cha phải sống tốt hơn để
nêu gương cho con trai của họ nhiều hơn! Chúng ta đã nghe sáng nay từ một vị sĩ
quan cảnh sát, và tin được đưa trên đài BBC vào tháng 6 vừa qua, năm ngoái ở Bắc
Ái Nhĩ Lan người ta đã chi nửa triệu bảng Anh một tuần cho những cô gái mại dâm.
Chúng ta đã nghe nói sáng nay rằng có ít nhất 88 nhà thổ ở Bắc Ái Nhĩ Lan, có
nghĩa là có nhiều đòi hỏi về gái mại dâm ở Bắc Ái Nhĩ Lan hơn bất kỳ một quốc
gia nào khác ở châu Âu! Và quí vị đang ngồi kia có thể nói: 'Còn Cơ đốc nhân...!?' – hãy chờ một chút, tôi sẽ nói cho quí vị
biết: Cơ đốc nhân, ít nhất là những người dám xưng mình là Cơ đốc nhân. Quí vị
nói: 'Không! Không thể như thế được'. Phải, cho dù họ không
thăm viếng cái thứ đã được lập trình đó, khiêu dâm trên mạng Internet có tỉ lệ
của dịch lệ. Đây là tội kín nhiệm của nhà thờ Tin Lành, và chúng ta sợ phải nói
tới nó. Căn bịnh nầy đầy dẫy, và 57% quí Mục sư trên nước Mỹ đang làm chứng cho
cơn nghiện khiêu dâm, là vấn đề gây thảm hoạ về mặt tình dục nhiều nhất trong hội
chúng của họ! Nếu quí vị tiếp thu một nan đề như thế ở đây tối nay, tôi rất cảm
thông với quí vị, song quí vị cần phải được giúp đỡ, và quí vị cần phải ăn năn,
và quí vị cần phải đoạn tuyệt với nó – và không một ai trong chúng ta đứng cao 6
feet trên nan đề ấy, bất kỳ ai trong chúng ta có thể sa vào bất kỳ lãnh vực nào
trong số đó, nhưng hội thánh cần phải được thanh tẩy! Dân sự của Đức Chúa Trời đã
đứng ngay chỗ chẳng có sự khác biệt nào so với người thế gian! Đạo đức về tình
dục của chúng ta có khác biệt gì không? Phải, tôi đã giảng trong một hội thánh
Tin Lành chưa lâu lắm đâu – hội thánh ấy có thể được xem là bảo thủ, thậm chí
có thể được coi là loại nhà thờ chính thống nữa đấy – và tôi đã giảng ở Rôma 1 nói
tới nhận định của Đức Chúa Trời về tình trạng đồng tính luyến ái, và tôi nhận được
cú điện thoại từ một trong các trưởng lão sau một loạt buổi nhóm. Bản thân ông
rất đỗi ngạc nhiên, ông nói với tôi rằng một vài thanh niên đã đến với ông sau
những buổi nhóm đó rồi trao đổi với các trưởng lão rằng họ không nhận ra Kinh
thánh có nói gì với tình trạng đồng tính – điều đó đã xảy ra tại Newtownards
Việc
thứ ba Ngài cáo giác họ ở trong câu 8, phần khởi sự của câu nầy chép như sau: 'Chúng nó nằm gần mỗi bàn
thờ, trên những áo xống đã nhận làm của tin', thái độ ích kỷ. Điều nầy
ám chỉ đến điều luật có trong sách Phục truyền luật lệ ký, ở đó, nếu áo xống đã
được nhận làm của tin, quí vị sẽ phải trả tiền, cái áo xống ấy đã được trao cho
quí vị trước ban đêm vì đấy là chiếc áo duy nhứt để giữ ấm cho, giống như cái mền
vậy. Nhưng trong thời của Amốt, họ đã giữ những cái áo ấy, gây khổ sở cho người
nghèo – thật là ích kỷ! Người ta sinh sống cho bản thân họ với phí tổn của nhiều
người khác. Giờ đây, việc ấy đang phản ảnh trong Hội thánh, trong sự thiếu thốn
không có lạc hiến, đặc biệt cho công tác truyền giáo, và thiếu hẳn việc đi đến
các đầu cùng đất để dựng lên ngọn cờ của Đấng Christ. Thiệt là ích kỷ.
Việc
thứ tư Ngài cáo giác họ là ở trong các câu 9 - 10 là vô ơn, Ngài phán ở đó: 'Dầu vậy, chính ta đã tuyệt
diệt người A-mô-rít trước mặt chúng nó, là thứ người cao bằng cây bách và mạnh
như cây dẻ bộp. Ta đã diệt những trái nó ở trên và những rễ nó ở dưới. Ta cũng đã
đem các ngươi lên khỏi đất Ê-díp-tô, và dắt các ngươi trong đồng vắng … - thế mà các ngươi vô ơn đối
với sự ấy'. Phải chăng trong hội thánh ngày nay có sự không biết ơn, ít lời
ngợi khen trong sự cầu nguyện và ghi nhớ sự chết của Chúa cho tới chừng Ngài đến?
Hãy nhìn tới đi, việc thứ năm, câu 12, đã có sự say sưa giữa vòng dân sự của Đức
Chúa Trời: 'Nhưng các
ngươi đã cho các người Na-xi-rê uống rượu, và cấm các kẻ tiên tri rằng: Chớ nói
tiên tri!''. Họ đã ép buộc những người Naxirê, họ đã thề không uống rượu mạnh,
buộc họ phải uống. Tôi có thể nói với quí vị: quí vị chỉ cần trao đổi với một số
sĩ quan cảnh sát ở đây tối nay thì hiểu rõ ngay rượu chè là một vấn nạn trong
xã hội của chúng ta, và thể nào nó đang đứng ở đàng sau nhiều tội ác khác. Nhưng
hãy chờ cho đến khi tôi nói cho quí vị biết một việc: điều nầy đã trở thành nan
đề rất thực trong hội thánh. Khi việc uống rượu trong xã hội được chấp nhận, điều
nầy trở thành vòng vây nô lệ và đại lộ cho những Cơ đốc nhân sai lạc.
Có ngạc nhiên không khi mọi giá trị của con người đã bị trộn lẫn, vì
họ thắc mắc sự khải thị của Đức Chúa Trời
- họ buộc các vị tiên tri phải nín lặng!
Họ
phạm tội hối lộ và tham lam, tà dâm và ham mê sắc dục, ích kỷ, vô ơn, say sưa –
còn nữa: họ phạm tội chối bỏ sự mặc khải của Đức Chúa Trời. Câu 12: 'và cấm các kẻ tiên tri rằng:
Chớ nói tiên tri!'' Có ngạc nhiên không khi mọi giá trị của con người đã bị trộn
lẫn, vì họ thắc mắc sự khải thị của Đức Chúa Trời – họ buộc các vị tiên tri phải
nín lặng! 'Chúng tôi không muốn nghe cái gì nữa hết!' George Barna vào năm 1981
đã thực hiện một nghiên cứu, quí vị đã nghe nói về Nghiên Cứu của Barna, nó có
tước hiệu là 'Điều Người Mỹ Tin'. Họ đã thăm dò 1000 người
Mỹ, và 825 người trong số họ xưng mình là Cơ đốc nhân. Ông phát hiện ra một số
sự kiện đáng lo ngại về nhận định của họ chiếu theo lẽ thật tuyệt đối. Ông đã
tìm ra 28% những người được phỏng vấn, họ nhất trí mạnh mẽ với câu nói nầy, hãy
nghe: 'Chẳng có cái gì là lẽ thật tuyệt đối cả' - 28% đã nhất trí với
câu nói đó, chẳng có cái gì là lẽ thật tuyệt đối cả. 38% khác nói họ đồng ý -
28% đã mạnh mẽ đồng ý, 38% đồng ý – rằng cộng lại hết thảy là 66%. Đáng ngạc
nhiên thay, 23% trong số đó xưng mình là Cơ đốc nhân đã được lại sanh, và họ mạnh
mẽ đồng ý chẳng có cái gì là lẽ thật tuyệt đối cả! Chúng ta có nan đề chối bỏ sự
khải thị của Đức Chúa Trời không? Tôi nói, chúng ta có đấy.
Tôi
chẳng lấy làm ngạc nhiên khi Barna tường trình chỉ có 58% Cơ đốc nhân trưởng
thành xưng mình đã đọc đôi điều quan trọng từ Kinh thánh mỗi tuần. Đây là một
việc rất nghiêm trọng. Chúng ta đã nghe tuần nầy một số việc tốt lành đang xảy
ra trong xứ sở của chúng ta, và chúng ta ngợi khen Đức Chúa Trời vì việc ấy, nơi
các cấp cao hơn trong lực lượng cảnh sát. Nhưng tôi có thể nói cho quí vị biết:
trên cơ sở hàng tuần, những quyển Kinh thánh Ghiđêôn đã bị dời ra khỏi các bịnh
viện trong xứ sở của chúng ta, trong đất đai của chúng ta, thậm chí trong chính
thị trấn của chúng ta, kể cả thị trấn của tôi nữa. Sự khải thị của Đức Chúa Trời
đang bị chối bỏ – và hãy đợi đấy, tôi nói cho quí vị biết một việc: đấy là thảm
hoạ cho một quốc gia! Là một cá nhân, nếu quí vị chối bỏ sự khải thị của Đức
Chúa Trời, quí vị sẽ bị hư mất cho đến đời đời – nhưng có những hậu quả của sự
phán xét dành cho một quốc gia nào chối bỏ sự khải thị của Đức Chúa Trời. Quí vị
có nghe nói tới 'hình thức phê phán cao hơn
trong Kinh thánh' chưa? Hình thức nầy thắc mắc tình trạng thẩm quyền lịch sử của
Kinh thánh theo như Kinh thánh trình bày thẩm quyền đó. Hình thức nầy phát sinh
từ nước Đức giữa thế kỷ thứ 18 cho tới đầu thế kỷ 20. Thật là khó tin khi quí vị
nghĩ hình thức ấy lại phát sinh từ vùng đất của Công Cuộc Cải Chánh, vùng đất đã
chuyển dịch Kinh thánh thành ngôn ngữ của con người, vùng đất của Luther, vùng đất
đã tái khám phá những lẽ thật cao trọng nầy của đạo Tin Lành – từ vùng đất đó đã
dậy lên một thắc mắc về sự khải thị của Đức Chúa Trời. Tôi có nghe Derek Prince
trong một bản tường trình ghi lại như sau: 'Cũng từ
vùng đất ấy, họ chối bỏ sự khải thị của Đức Chúa Trời, đã có hai con quái vật dữ
dội nhất mà dòng giống loài người từng trông thấy, đó là Karl Marx và Adolf
Hitler'.
Có
những hậu quả dành cho một quốc gia khi họ chối bỏ sự khải thị của Đức Chúa Trời.
Amốt kêu lên, Amốt tên của ông có nghĩa là 'gánh nặng', ông kêu lên: 'Ta bị ép dưới gánh nặng tội lỗi nầy'. Quí bạn tôi ơi, tối
nay, có phải chúng ta đã bị đè, có phải chúng ta đã bị đè bởi sự hiện diện của
những tội lỗi nầy trong xứ sở của chúng ta không? Có lẽ trong thương trường, trong
công ăn việc làm của chúng ta, bất luận chúng là gì đi nữa, cơ nghiệp của chúng
ta? Trong các nhà thờ? Trong gia đình của chúng ta? Thậm chí có thể được ấp ủ
trong tấm lòng của chúng ta? Ồ, quí vị có nghe sứ điệp của Amốt chưa? 'Đức Chúa Trời đang gầm thét!' Tôi hy vọng tuần lễ nầy,
khi tôi rao giảng cho quí vị từ sách tiên tri nầy, rằng quí vị sẽ nghe thấy tiếng
gầm thét của Đức Chúa Trời Ngài đang kêu la: 'Chẳng có một sự khác biệt gì giữa dân sự Ta trong
thế gian cả'. Hay có phải vấn đề là thế nầy không, chúng ta đã bị điếc vì hai
lỗ tai của chúng ta đã bị bịt kín hết, giống như dân Israel, bởi sự giàu có, bởi
sự thờ ơ, bởi tình trạng vô mục đích, thậm chí bởi những buổi thờ phượng rất
tôn giáo của chúng ta? Chúng ta nghĩ hết thảy đều tốt thôi, và giống như Amaxia
và Giêrôbôam tại Cung Điện kia, họ đang lấy làm lạ không biết gã nầy đang nói
cái gì!?!
Có nhiều hậu quả cho một quốc gia khi họ chối bỏ sự khải thị của Đức
Chúa Trời...
Amốt
là người của Đức Chúa Trời ở dưới gánh nặng của Đức Chúa Trời với sứ điệp của Đức
Chúa Trời, và đây là lời cầu nguyện của tôi trong tuần lễ nầy – cho xứ sở của
chúng ta, và cho các gia đình của chúng ta, và cho đời sống cá nhân của chúng ta – quí vị ơi, hết thảy
chúng ta sẽ phải ở dưới gánh nặng của Đức Chúa Trời.
Hết
thảy chúng ta hãy cầu nguyện, và ngay trước khi tôi kết thúc buổi nhóm nầy bằng
sự cầu nguyện, tôi vốn ý thức rằng tiếng gầm thét của Đức Chúa Trời sẽ đến với
quí vị ngay chỗ quí vị ngồi trong buổi nhóm nầy, trong hoàn cảnh của quí vị, có
lẽ trong tội lỗi của quí vị nữa đấy. Ngay cả quí vị là những người tự nhận mình
là con cái của Đức Chúa Trời, nhưng quí vị biết đấy, có những việc trong đời sống
của quí vị còn tệ lậu hơn những kẻ mà quí vị biết họ là người chưa tin Chúa kìa.
Có ân điển một khi quí vị chịu ăn năn, xưng nhận mọi tội lỗi của quí vị, và đoạn
tuyệt những việc kia mà quí vị đã dính dáng vào, rồi đến nơi chân thập tự giá –
có sự thanh tẩy trong huyết quí báu để che đậy mọi tội lỗi của quí vị, nhưng
quí vị phải ăn năn. Đức Chúa Trời nầy là Đức Chúa Trời của sự công bình. Hỡi
các tín hữu trong buổi nhóm, liệu quí vị sẽ đến trên linh trình nầy với tôi tuần
nầy, ở dưới gánh nặng của Đức Chúa Trời vì xứ sở của chúng ta, vì hội thánh của
chúng ta không?
Lạy Cha, chúng con cần đến Ngài là dường nào, chúng con
khát khao Ngài đến thình lình trong Đền Thờ của Ngài là dường nào, xin Ngài tới
đến, chiếm lấy và ngự trong Hội thánh của Ngài một lần nữa, và để làm đầy dẫy
nhiều đời sống của những người tin nhận Ngài để chúng con sẽ ở trong sự sáng đang
chiếu rọi. Israel đã thất bại, Lạy Chúa, và chúng con thường bị thất bại lắm. Nếu
chúng con không đặt ngọn đèn của chúng con ở dưới cái thùng, chúng con để cho
ánh sáng của chúng con bị dập tắt với tội lỗi của thế gian nầy. Ôi Chúa, chúng
con cầu xin rằng Ngài sẽ dạy dỗ chúng con tuần nầy biết phân biệt giữa điều chi
là thánh và điều chi là tục – Lạy Chúa, không phải vì những lý do thiên về với
luật pháp, mà vì tình yêu thương của Ngài! Vì Ngài muốn chúng con, bởi ơn thương
xót của Đức Chúa Trời, dâng thân thể của chúng con làm của lễ sống vì cớ mọi điều
Chúa Jêsus đã làm, chúng con xin dâng hết thảy cho Ngài, không giữ lại một mảy
may nào, không chút hối tiếc. Lạy Chúa, xin gặp gỡ chúng con tuần lễ nầy. Xin nắm
lấy chúng con giờ nầy với ơn phước của Ngài, rồi đưa chúng con trở lại lúc ban
sáng để nghe tiếng phán của Ngài. Chúng con cầu nguyện trong danh Chúa Jêsus,
Amen.
