"Bản Án Đầu Tiên, Tình Trạng Vô Mục Đích"
Xin
chào hết thảy quí vị một lần nữa, thật là tuyệt vời khi có mặt ở đây, và để
nhìn thấy nhiều người nhóm lại như thế trong hội chúng tối nay để lắng nghe Lời
của Đức Chúa Trời. Cảm ơn quí vị vì đã đến, chúng ta cùng nhau tin rằng chúng
ta sẽ nhận biết ơn phước của Đức Chúa Trời như chúng ta đang nhìn biết rồi vào
những buổi sáng như thế nầy và tối qua. Chúng ta hãy mở Kinh thánh ra ở sách
tiên tri Amốt, nếu quí vị có Kinh thánh, hãy mở ra với tôi ở đó – sách ấy nằm
sau sách Đaniên ba sách, vì thế nếu quí vị tìm thấy sách Êxêchiên và kế đó là sách Đaniên, quí vị sẽ
tìm được sách Amốt. Chúng ta đang ở tại chương 3 tối nay, tối qua chúng ta đã
xem ở các chương 1 và 2.
Sau khi loan báo sự phán xét giáng trên sáu nước dân Ngoại,
tiên tri Amốt xây sự chú ý của ông sang dân sự của Đức Chúa Trời...
Amốt
chương 3, chúng ta đã lấy đề tựa 'Đức Chúa Trời Công Bình', và tối qua, nếu
quí vị không có mặt ở đây, chúng ta đã xem qua 'Kẻ Bị Cáo' – là
những kẻ bị cáo giác trong các nước, xứ Giuđa và Israel, vì tội lỗi của họ. Tối
nay chúng ta sẽ nhìn vào đề tựa mà tôi đã gọi là bản án đầu tiên nghịch cùng Israel,
và bản án ấy nói tới 'Tình Trạng Vô Mục Đích'. Câu 1, và chúng ta chỉ đọc ở chương 3: "Hỡi con cái Y-sơ-ra-ên,
hãy nghe lời nầy, là lời Đức Giê-hô-va phán nghịch cùng các ngươi, tức là nghịch
cùng cả họ hàng mà ta đã đem lên khỏi đất Ê-díp-tô. Ta đã biết chỉ một mình các
ngươi trong mọi họ hàng trên đất; vậy nên ta sẽ thăm phạt các ngươi vì mọi sự
gian ác các ngươi. Nếu hai người không đồng ý với nhau, thì há cùng đi chung được
sao? Nếu sư tử không bắt được mồi, thì há có gầm thét trong rừng sao? Sư tử con
nếu không bắt được gì, thì há có làm vang những tiếng kêu từ nơi sâu của hang
nó sao? Con chim, nếu chẳng có bẫy gài để bắt nó, thì nó há sa vào trong lưới
giăng ra trên đất sao? Bằng chẳng bắt được gì thì lưới há có dựt lên khỏi đất?
Kèn thổi trong thành thì dân sự há chẳng sợ sao? Sự tai vạ há có xảy ra cho một
thành kia nếu mà Đức Giê-hô-va chẳng làm? Cũng vậy, Chúa Giê-hô-va chẳng có làm
một việc gì mà Ngài chưa tỏ sự kín nhiệm Ngài ra trước cho tôi tớ Ngài, là các Đấng
tiên tri. Khi sư tử gầm thét, thì ai mà chẳng sợ? Khi Chúa Giê-hô-va đã phán dạy,
thì ai mà chẳng nói tiên tri? Hãy rao truyền ra trong các đền đài Ach-đốt và
trong các đền đài của đất Ê-díp-tô, và nói rằng: Các ngươi khá nhóm lại trên
các núi của Sa-ma-ri; hãy xem nhiều sự rối loạn lớn lao ở đó, và những sự bạo
ngược giữa nó. Đức Giê-hô-va phán: Chúng nó không biết làm sự ngay thẳng; chúng
nó chất chứa của hung dữ và cướp dựt ở trong các đền đài mình. Vậy nên Chúa
Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, kẻ nghịch sẽ đến vây bọc đất nầy; nó cất mất sức mạnh
ngươi, và những đền đài ngươi sẽ bị cướp phá. Đức Giê-hô-va phán như vầy: Như kẻ
chăn chiên chỉ gỡ được hai giò hay một tai ra khỏi họng sư tử, thì những con
cái Y-sơ-ra-ên, là những kẻ ngồi tại Sa-ma-ri nơi góc giường và trên thảm của Đa-mách,
cũng sẽ được cứu cách như vậy. Chúa Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân phán rằng:
Hãy nghe, và làm chứng nghịch cùng nhà Gia-cốp. Đến ngày mà ta sẽ thăm phạt Y-sơ-ra-ên
về tội lỗi nó, ta cũng sẽ thăm phạt các bàn thờ của Bê-tên; những sừng của bàn
thờ sẽ bị chặt và rơi xuống đất. Bấy giờ ta sẽ đánh nhà mùa đông và nhà mùa hạ;
những nhà bằng ngà voi sẽ bị phá, và những nhà lớn sẽ bị hủy diệt, Đức
Giê-hô-va phán vậy". Amen.
Chúng
ta cùng nhau cầu nguyện, và như tôi đã nói tối qua, tôi sẽ giảng mỗi đêm, nếu
quí vị đang tương giao với Đức Chúa Trời, tôi mời quí vị giờ đây hãy đến với
tôi khi chúng ta hiệp một trong sự cầu nguyện, nguyện lời thỉnh cầu bay lên tới
Đức Chúa Trời, xin Ngài phán cùng chúng ta. Tôi mong quí vị muốn gặp gỡ với Đức
Chúa Trời – tôi biết, khi đứng ở đây trên toà giảng, tôi cần phải gặp gỡ Đức
Chúa Trời, và tôi hy vọng quí vị cần phải gặp Đức Chúa Trời và cảm thấy mình có
nhu cần về sự gặp gỡ đó, rồi tìm kiếm và đeo đuổi Ngài và tiếng phán của Ngài tối
nay. Nếu quí vị chưa găp Ngài, hãy dò xét lòng mình ngay lúc nầy đây. Có thể
quí vị chưa phải là Cơ đốc nhân, quí vị chưa được sanh lại, hay quí vị chưa làm
hoà lại với Đức Chúa Trời trong vai trò một Cơ đốc nhân. Phải, hãy đến ngay giờ
nầy, rồi hãy nói: 'Lạy Chúa, xin phán
cùng con'.
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Ngài vì Ngài quả là Đức Chúa Trời, và xin đừng im lặng.
Ngài là Đức Chúa Trời là Đấng đang phán dạy, Ngài có đôi điều để nói với chúng
con và với thế hệ mà chúng con đang sinh sống trong đó. Ôi Chúa, chúng con cảm
tạ Ngài vì lời hứa rằng người nào đến với Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức
Chúa Trời, và Ngài là Đấng ban thưởng cho kẻ nào tìm kiếm Ngài. Lạy Chúa, chúng
con đang tìm kiếm Ngài tối nay; Lạy Chúa, chúng con đang tìm kiếm mặt Ngài; Lạy
Chúa, chúng con tối nay xin Ngài gặp gỡ chúng con. Hãy đến hỡi Đấng Toàn Năng để
giải cứu, chúng con cầu xin Ngài hạ cố với chúng con, quăng xa tội lỗi của
chúng con đi rồi ngự vào, thành hình trong chúng con hôm nay. Lạy Chúa, xin làm
thoả mãn từng nhu cần. Chúng con đang lắng nghe sáng nay về Êsai, ông đã tuyên
xưng: 'Khốn nạn cho tôi!', và khi ông xưng ra nhu
cần của ông Ngài đã làm thoả mãn ngay lập tức cho ông đúng nhu cần của ông. Lạy
Chúa, xin làm thoả mãn nhu cần của con, xin làm thoả mãn mọi nhu cần của chúng
con. Lạy Chúa, chúng con cần Ngài, chúng con cần ân sũng của Ngài, chúng con cần
ơn thương xót của Ngài, chúng con cần quyền phép của Ngài, chúng con cần sự đổ
ra của Thánh Linh Ngài. Vì vậy, trong danh của Chúa Jêsus chúng con, Đấng đã bị
đóng đinh trên thập tự giá, đã sống lại và được tôn cao, chúng con cầu xin Đức
Thánh Linh ngự đến, ban ra lẽ thật nói tới Đức Chúa Trời. Ôi Chúa, xin giúp con,
con cầu nguyện trong danh của Đức Chúa Jêsus Christ. Amen.
Họ đã bị sốc khi vị tiên
tri của Đức Chúa Trời xây sang họ
và hết thảy dường như thấy
mình như bị đay nghiến nhiều khi bị ông kiểm điểm về sự quá phạm và tội lỗi của
họ...
Sau
khi công bố sự phán xét giáng trên sáu nước dân Ngoại ở chương 1 và ba câu đầu
tiên của chương 2, tiên tri Amốt xây sự chú ý của ông sang dân sự của Đức Chúa
Trời. Ông khởi sự với xứ Giuđa từ câu 4 trở đi ở chương 2, rồi kế đó ông xây
sang Israel và ông giải thích lý do tại sao sự phán xét sẽ xảy đến giáng trên họ.
Tất nhiên là họ mong mỏi rằng Đức Chúa Trời sẽ xét đoán các dân Ngoại, nhưng họ
bị sốc khi vị tiên tri của Đức Chúa Trời xây sang họ và hết thảy dường như thấy
mình bị đay nghiến nhiều khi ông kiểm điểm về sự quá phạm và tội lỗi của họ. Quí
vị sẽ nhớ lại, một khi quí vị có mặt ở đây tối qua, rằng Vương quốc phía Bắc Israel
– quốc gia đã bị phân chia thành hai vương quốc, 10 chi phái ở phía Bắc, hai
chi phái ở phía Nam, Israel phía Bắc, Giuđa phía Nam – Vương quốc phía Bắc Israel
mà Amốt đang rao giảng cần phải hưởng sự hoà bình, thịnh vượng, và ngay cả cơn
phấn hưng tôn giáo đủ loại nữa. Mọi việc đang tiến triển suông sẻ, và dân sự đang
tham dự các buổi thờ phượng tôn giáo. Quí vị cần phải dâng lời cảm tạ về mọi sự
ấy, có phải không? – và khi họ đã đến với những buổi thờ phượng tôn giáo đó, họ
sẽ mang theo bên mình những của lễ cùng các ân tứ thật rời rộng. Trước mọi dự
tính cùng các mưu mô, trước con mắt xác thịt, mọi sự dường như suông sẻ ở phía
Bắc – còn ở đây là bài học mà quí vị sẽ tiếp thu tối nay, và xuyên suốt cả loạt
bài nầy: có những việc không luôn diễn ra như họ mong đợi. Bạn có biết việc ấy
không? Các tiên tri thực của Đức Chúa Trời không nhìn vào dáng dấp bên ngoài
thôi đâu, các tiên tri thật của Đức Chúa Trời quan sát y như Đức Chúa Trời quan
sát vậy, họ nắm lấy tấm lòng. Sâu xa y như Israel đã quan tâm, đây là khoảng thời
giờ tốt nhứt; còn về mặt thuộc linh, như vị tiên tri có thể nhìn thấy, và như Đức
Chúa Trời có thể xem thấy, đây là khoảng thời gian tệ lậu nhất đấy thôi.
Từ chương
3 thẳng đến chương 6, Amốt giảng ba bài. Tôi gọi đấy là ba bản án, và ông giới
thiệu từng bản án đó với tiếng kêu la nầy - câu 1 của chương 3: 'Hãy nghe lời nầy', câu 1 của chương 4: 'Hãy nghe lời nầy', câu 1 của chương 5: 'Hãy nghe lời nầy'. Ông muốn họ hãy lắng nghe lời của Đức Chúa Trời,
và sự thách thức dành cho dân Israel trong thời của ông và sự thách thức dành
cho chúng ta trong thời của chúng ta là: chúng ta có nhìn vào mọi sự như chúng
vốn có, hay chúng ta sẽ lắng nghe lời nầy, là Lời của Đức Chúa Trời? Chúng ta sẽ
nhìn xem mọi việc theo cách Đức Chúa Trời nhìn xem chúng hiện có trong xứ sở, trong
hội thánh, trong nhà cửa, trong gia đình, trong đời sống của chính chúng ta
không? Chúng ta sẽ quan sát mọi việc theo như chúng vốn có, hay chúng ta sẽ lắng
nghe Đức Chúa Trời? Quí vị thấy đấy, mọi sự dường như suông sẻ, nhưng vấn đề lớn
lao là: Đức Chúa Trời nhìn xem vấn đề như thế nào? Amốt, tên của ông chúng ta đã
thấy có ý nghĩa 'gánh nặng', ông bị đè nặng vì ông
không chấp nhận dư luận về các điều kiện hiện chiếm ưu thế về kinh tế, về chính
trị, và về tôn giáo – nhưng lỗ tai ông thì hướng về Đức Chúa Trời, và vì cớ đó
ông bị bối rối với chính gánh nặng của Đức Chúa Trời.
Vì
vậy, sứ điệp thứ nhứt của ông là những gì chúng ta sẽ nhìn vào tối nay ở chương
3, và thật là hiệu quả khi đó là phần biện minh từ vị tiên tri chỉ ra lý do tại
sao ông đang rao giảng sự phán xét giáng trên dân sự của Đức Chúa Trời. Quí vị
thấy đấy, Israel đã phản kháng, họ đang thốt ra đôi điều đại loại như sau: 'Làm sao Đức Chúa Trời của chúng ta, Giêhôva Đức Chúa Trời
giao ước của chúng ta, lại giáng sự phán xét trên chúng ta chứ? Chúng ta là tuyển
dân của Ngài mà!' Tất nhiên, chúng ta biết rõ từ Phục truyền luật lệ ký chương 7 rằng
đấy là trường hợp, Đức Chúa Trời rất dịu dàng phán cùng họ ở đó: 'Đức
Giê-hô-va tríu mến và chọn lấy các ngươi, chẳng phải vì các ngươi đông hơn mọi
dân khác đâu; thật số các ngươi là ít hơn những dân khác. Nhưng ấy vì Đức
Giê-hô-va thương yêu các ngươi, và giữ lời thề mà Ngài đã lập cùng tổ phụ các
ngươi, nên Đức Giê-hô-va nhờ tay mạnh rút các ngươi ra, chuộc khỏi nhà nô lệ,
và cứu khỏi tay Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô'. Nhưng quí vị thấy đấy, dù họ được tuyển chọn bởi
Đức Chúa Trời, đấy chính là lý do tại sao Đức Chúa Trời sẽ phán xét họ. Họ đã
phản kháng: 'chúng tôi là tuyển dân của
Ngài!',
còn Đức Chúa Trời thì phán cùng họ: 'Phải, đấy là lý do tại
sao Ta sẽ phán xét các ngươi'.
...đấy chính là lý do cho
sự phán xét của họ – không một lời bào chữa để thoát khỏi sự phán xét đó...
Vì
vậy, nếu quí vị thích, mục đích đầu tiên của bài giảng nầy của ông, hay bản án
của ông gán cho họ, nằm trong một sự biện minh lý do tại sao ông rao giảng sự
phán xét, như sau: 'Ta đã rao giảng sự
phán xét cho các ngươi vì cớ sự tuyển chọn các ngươi'. 'Các ngươi là dân sự của Đức Chúa Trời', ở các câu 1 và 2 ông
nói rằng: 'Ta đã đem các ngươi lên khỏi đất
Ê-díp-tô',
câu 2: 'Ta đã biết chỉ một mình các ngươi trong mọi họ hàng trên đất;
vậy nên ta sẽ thăm phạt các ngươi vì mọi sự gian ác các ngươi'. Quí vị thấy đấy, Đức GIÊHÔVA đã giải cứu Israel ra khỏi vòng nô lệ của người
Aicập, rồi gọi họ là một dân đặc biệt, một dân thánh, một chứng nhân cho các nước
chung quanh, và đấy chính là lý do cho sự phán xét của họ – không một lời bào
chữa để thoát ra khỏi sự phán xét đó. Tôi có thể thốt ra cùng ứng dụng ấy cho hội
thánh của Đức Chúa Jêsus Christ hôm nay không? Giờ đây, tất nhiên là có một cuộc
tranh cãi lớn lao về sự tuyển chọn, và tôi sẽ không yêu cầu quí vị đưa tay lên
nếu quí vị là người thuộc hệ phái Calvin – nhưng họ thường đưa hai tay lên cho
dù là thế nào đi nữa! – hoặc nếu quí vị là một một người Armin ... và quí vị lấy
làm lạ: 'Được thôi, ông là ai chứ?' Vâng, có lẽ tôi là cả
hai đấy, có khi cùng một thời điểm nữa – điều ấy thực sự làm cho quí vị nhầm lẫn
tối nay! Tôi có niềm tin về các lẽ đạo quan trọng nầy như chúng vốn có, vì
chúng là những lẽ đạo trong Kinh thánh có trong Lời của Đức Chúa Trời, nhưng hầu
hết cuộc tranh luận đang tiếp diễn về sự tuyển chọn và sự tiền định tuyệt đối
là vô ích. Chúng là những lẽ đạo quí báu, nhưng phần nhiều cuộc tranh cãi tạo
ra bầu không khí nóng nảy và hơi nóng hơn là ánh sáng. Nhưng bất luận quan điểm
nào của quí vị về các lẽ đạo quan trọng nầy, tôi nghĩ tôi yên tâm khi nói rằng
mọi phía đều ở trong sự đồng ý ở chỗ sự tuyển chọn trong Kinh thánh luôn luôn
có một mục đích. Tuy nhiên, dân sự của Đức Chúa Trời đã được tuyển chọn, sự tuyển
chọn ấy luôn luôn có với một mục đích. Israel được tuyển chọn bởi Đức Chúa Trời
để trở thành chứng nhân của Đức GIÊHÔVA cho các nước dân Ngoại ở chung quanh, và cũng một
thể ấy hội thánh được tuyển chọn trong Đấng Christ để trở thành, như Chúa Jêsus
phán, sự sáng của thế gian – Mathiơ chương 5: 'Các ngươi là sự sáng của thế gian;
một cái thành ở trên núi thì không khi nào bị khuất được: cũng
không ai thắp đèn mà để dưới cái thùng, song người ta để trên chân đèn, thì nó
soi sáng mọi người ở trong nhà. Sự sáng các ngươi hãy
soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và
ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời'.
Quí
vị thấy đấy, sự tuyển chọn luôn luôn là vì một mục đích. Chúa Jêsus phán về
chính mình Ngài ở Giăng 15:16 với các sứ đồ: 'Ấy chẳng phải các ngươi
đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và lập các ngươi, để các ngươi đi và kết quả, hầu
cho trái các ngươi thường đậu luôn: lại cũng cho mọi điều các ngươi sẽ nhân
danh ta cầu xin Cha, thì Ngài ban cho các ngươi'. Sứ đồ Phaolô một lần nữa,
trong chương quan trọng ở Êphêsô 1, ở đây ông đụng đến sự tiền định và sự tuyển
chọn, chép: 'trước khi
sáng thế, Ngài đã chọn chúng ta trong Đấng Christ, đặng làm nên thánh', có mục đích, 'không chỗ trách được trước
mặt Đức Chúa Trời' . Quí vị có thấy như thế không? Sự tuyển chọn là vì một mục
đích, và chúng ta đã nhìn thấy tối qua nơi nào có đặc ân – và có một đặc ân lớn
lao trong việc trở thành chi thể trong cộng đồng của Đức Chúa Trời – cũng có một
trách nhiệm nữa. Nếu quí vị là một người tối nay nhắc tới lẽ đạo tuyển chọn
trong Kinh thánh, dù quí vị hiểu lẽ đạo ấy, có phải quí vị cũng hiểu rõ phần
trách nhiệm phải có trong việc trở thành một chứng nhân cho Đấng Christ trong
thời buổi và trong thế hệ nầy không? Vì trách nhiệm đến với đặc ân, và phải có
một sự trình sổ cùng với trách nhiệm đó. Quí vị cần phải trình sổ vì là một chi
thể trong hội thánh. Một thuộc viên hội thánh bày tỏ với vị Mục sư sau một buổi
thờ phượng: 'Tôi không biết lý do tại sao ông rao giảng
về tội lỗi của Cơ đốc nhân', Họ nói: 'Rốt lại, tội lỗi của Cơ
đốc nhân rất khác biệt với tội lỗi của người chưa được cứu'. Vị Mục sư đáp lại như
sau: 'Đúng, họ rất khác đấy, họ còn tệ hại hơn nữa
kìa!' Họ
tệ hại hơn, là vì cớ sự tuyển chọn của chúng ta. Đấy là lý do tại sao Amốt được
xưng công bình trong việc đem một sứ điệp nói tới sự phán xét cho Israel và cho
Giuđa, vì cớ sự tuyển chọn của họ – Đức Chúa Trời đã cứu họ với một giá rất cao,
hỡi con cái Đức Chúa Trời, giá ấy chính là huyết của Chúa Jêsus!
Người nào thuộc về Đức
Chúa Trời cần phải có và buộc phải đòi hỏi nơi họ những tiêu chuẩn cao hơn ...
Sự
việc rất là nghiêm trọng, đấy là lý do tại sao Cơ đốc nhân phạm tội là một vấn đề
nghiêm trọng, đấy là lý do tại sao tội lỗi trong hội thánh là một vấn đề nghiêm
trọng - vì, như Phierơ đã nói ở I Phierơ 4:17, sự phán xét phải bắt đầu từ nhà
của Đức Chúa Trời. Đấy là điều quí vị tìm thấy trong sách Amốt và nhiều sách của
các vị tiểu tiên tri và đại tiên tri khác nữa: Đức Chúa Trời sẽ đến viếng dân sự
Ngài với một sứ điệp nói tới sự phán xét – tại sao chứ?
Vì
người nào thuộc về Đức Chúa Trời cần phải có và buộc phải đòi hỏi nơi họ những
tiêu chuẩn cao hơn. Vì vậy, trước hết ông kể ra sự tuyển chọn của họ như một biện
minh cho sứ điệp mạnh mẽ như thế nầy, nhưng thứ hai Israel đang thể hiện sự phản
kháng của họ. Đấy là việc thường xảy ra, quí vị thấy đó, họ khởi sự tấn công
nhà truyền đạo. Họ dám nói: 'Kẻ chăn tầm thường, gã
làm ruộng nầy, tên chăn bầy nầy có quyền gì chứ, dám lăng mạ chúng ta và cảnh
báo chúng ta về sự phán xét chứ? Hắn nghĩ hắn là ai vậy? Thậm chí hắn không phải
là một nhà tiên tri chuyên nghiệp nữa, cha của hắn không phải là một vị tiên
tri, và hắn chưa hề đến với một chủng viện tiên tri nào hết'. Vì vậy, Amốt kể sự Đức
Chúa Trời ủy thác ông trong vai trò một tiên tri là một sự biện minh cho ông đem
sứ điệp nói tới sự phán xét nầy đến. Chúng ta nhìn thấy vấn đề nầy ở câu 3: 'Nếu
hai người không đồng ý với nhau, thì há cùng đi chung được sao? ' Quí vị thấy đấy, Amốt và
Đức Chúa Trời đã cùng đi với nhau vị họ đã nhất trí với nhau.
Hãy
nhìn vào câu 4: 'Nếu sư tử không bắt được mồi, thì há có gầm
thét trong rừng sao? Sư tử con nếu không bắt được gì, thì há có làm vang những
tiếng kêu từ nơi sâu của hang nó sao?'. Rồi, câu 8: 'Khi sư tử gầm thét, thì
ai mà chẳng sợ? Khi Chúa Giê-hô-va đã phán dạy, thì ai mà chẳng nói tiên tri?' Chúng ta đã nhìn thấy tối
qua từ chương 1 và câu 2 là Đức Chúa Trời đang gầm rống giống như con sư tử với
Israel và Giuđa. Đây là sứ điệp của Đức Chúa Trời, Ngài đang tỏ ra cơn thạnh nộ
của Ngài! Và Amốt đã ở trong sự nhất trí với Đức Chúa Trời trong mọi sự, vì ông
đã đồng đi với Đức Chúa Trời. Thực vậy, những điều Đức Chúa Trời đã làm, chúng
ta đọc ở câu 5. Ngài đang giăng bẫy để bắt hạng tội nhân: “Con
chim, nếu chẳng có bẫy gài để bắt nó, thì nó há sa vào trong lưới giăng ra trên
đất sao?” Như chúng ta biết đó, Israel sẽ bị chinh phục, bởi Đế quốc phương
Bắc Asiri; và nước phía Nam Giuđa sẽ bị chinh phục rồi bị dẫn vào cuộc lưu đày
trong xứ của đế quốc chiến thắng, một đế quốc vĩ đại hơn. Mọi sự Amốt nói sẽ được
thực hiện, khi ông phát biểu ở đây trong câu 6, ông sẽ thổi kèn để cảnh cáo dân
sự rằng Đức Chúa Trời công bình nầy sẽ đến với dân sự Ngài để họ phải bị vị
tiên tri cảnh cáo họ: họ đã bị cảnh cáo vì họ không đồng đi với Đức Chúa Trời. Họ
đã không đồng đi với Đức Chúa Trời, và sở dĩ có hậu quả như thế là vì họ không
chịu nghe theo Đức Chúa Trời, vì họ không ở trong sự nhất trí với Đức Chúa Trời
giống như vị tiên tri. Đức Chúa Trời đã chia sẻ mọi sự kín nhiệm của Ngài với
Amốt hầu cho ông có thể rao giảng việc ấy ra, trỗi nó lên như một tiếng kèn và
cảnh cáo họ. Giờ đây, có nhiều bài học quan trọng mà tôi không có thì giờ đủ tối
nay, một số bài học trong đó là quan trọng nhắm vào ân tứ của vị tiên tri, cả Cựu
và Tân Ước, và thể nào Đức Chúa Trời, khi Ngài sắp tỏ ra một việc gì đó, Ngài tỏ
ra cho các tiên tri Ngài trước tiên để họ lên tiếng cảnh cáo dân sự. Sự việc thật
là lạ lùng – nhưng ở đây Đức Chúa Trời đang chia sẻ với Amốt thân quen, đáng
tin cậy của Ngài, những lẽ mầu nhiệm có trong tấm lòng của Ngài. Tôi nói cho
quí vị biết điều nầy: tôi không biết nhiều lắm đâu, nhưng tôi biết nhiều về việc
nầy đây, ấy là chúng ta cần một mảng về tiên tri trên các toà giảng của chúng
ta ngày nay. Chúng ta cần, một giọng nói tiên tri thật hiệu quả, những người
nào sẽ nói cho mọi thời đại vì họ đã lắng nghe trực tiếp từ Đức Chúa Trời – đấy
đúng là những điều Amốt đã nghe, ông vốn chẳng khác gì một nhà nghiên cứu thần
học, có lòng quan tâm, ông không phải là một nhà truyền đạo, song ông là một
nhà nông mà Đức Chúa Trời đã gặp gỡ. Vì ông đã đồng đi với Đức Chúa Trời, và ở
trong sự nhất trí với Đức Chúa Trời, ông đã lắng nghe từ Đức Chúa Trời và ông đã
rao giảng ra sứ điệp mà ông đã nghe biết – và phương thức luôn luôn là như thế.
Đức Chúa Trời bày tỏ tấm
lòng của Ngài ra cho Amốt vì, dù ông chẳng ra chi ở trước mắt của hầu hết mọi
người,
ông có mối tương giao với Đức
Chúa Trời...
Ở
Châm ngôn 29 và câu 18 chép như sau: 'Đâu thiếu sự mặc thị,
dân sự bèn phóng tứ!' Đôi khi tôi nghĩ chúng ta bỏ qua mục tiêu của bản dịch một
khi chúng ta quá quen thuộc với. Đây là ý nghĩa thật của câu ấy: 'Ở đâu chẳng có sự khải thị nào hết', loại mặc khải ấy, 'dân sự không còn kềm chế được nữa'. Khi chẳng có một ai
nói cho chúng ta biết mọi điều Đức Chúa Trời đã phán dạy, dân sự bèn làm những
gì họ ưa thích – dân sự của Đức Chúa Trời! Thực vậy, quí vị có một minh hoạ đáng
kinh ngạc về điều nầy ở I Samuên trong thời kỳ Các Quan Xét. Quí vị còn nhớ có
câu nói quan trọng nầy vào thời ấy hay không: 'Trong lúc đó, không có
vua nơi Y-sơ-ra-ên, mọi người cứ làm theo ý mình tưởng là phải'. Thầy tế lễ Hêli đã bị
mù, đúng là một hình ảnh của dân sự Đức Chúa Trời trong thời ấy – mù loà do tội
lỗi của họ. Kinh thánh chép, các con trai Hêli đã tự làm băng hoại và chẳng
nhìn biết Đức GIÊHÔVA. Có phải quí vị biết những gì Đức Chúa Trời phải làm không? Ngài
phải phán với một đứa trẻ, là Samuên. Chẳng một ai đồng đi với Đức Chúa Trời
hay đồng ý với Đức Chúa Trời, và chúng ta đọc trong I Samuên 3 và câu 1: 'Sa-mu-ên thơ ấu phục sự
Đức Giê-hô-va tại trước mặt Hê-li. Trong lúc đó, lời của Đức Giê-hô-va lấy làm
hiếm hoi, và những sự hiện thấy chẳng năng có' – và vì chẳng có một mặc
khải nào công khai cả, cho nên dân sự bèn phóng tứ, không kềm chế được. Quí vị
có nhìn thấy điều nầy chưa?
Đức
Chúa Trời đã bày tỏ tấm lòng của Ngài ra cho Amốt vì, dù ông chẳng ra gì trước
mắt của đại đa số dân sự, ông đã ở trong mối tương giao với Đức Chúa Trời. Giờ đây,
học vấn là tốt đấy, và tôi cảm tạ Đức Chúa Trời vì cái tước phẩm mà tôi đang có.
Kinh nghiệm cũng quan trọng đấy, và nhiều người trong quí vị có nhiều kinh nghiệm
hơn tôi. Ân tứ là một thứ cao trọng lắm đến từ bàn tay của một Đức Chúa Trời
giàu ơn, và sự hiểu biết Kinh thánh vốn quan trọng khi có cần cho sự giảng dạy –
song không một điều nào trong số nầy sẽ tạo thành một đấng tiên tri cho Đức
Thánh Linh! Thi thiên 25 câu 14 chép: 'Đức Giê-hô-va kết bạn
thiết cùng người kính sợ Ngài, tỏ cho người ấy biết giao ước của Ngài'. Quí vị có hiểu không? Quí
vị phải đồng đi với Đức Chúa Trời. Chính Murray M'Cheyne, là một người thuộc hệ
phái Trưởng Lão, ông đã nói: 'Chẳng phải những
ta-lâng mà Đức Chúa Trời chúc phước cho quan trọng nhiều cho bằng tình trạng giống
với Chúa Jêsus' – Tôi thích câu nói ấy. Có phải quí vị biết quí vị trở nên giống
với những người mà quí vị để nhiều thì giờ với, những người mà quí vị đồng đi với
không? Chỉ có một người đồng đi với Đức Chúa Trời mới có thể lắng nghe từ Đức
Chúa Trời để nói thay cho Đức Chúa Trời và nói: 'Hãy
nghe lời nầy! Hãy nghe lời nầy! Hãy nghe lời nầy!'
Cho
phép tôi hỏi quí vị một câu nhé: ai đang rao giảng cho Đức Chúa Trời hôm nay? Tôi
không muốn quí vị hiểu sai tôi, vì có nhiều diễn giả lắm – nhưng quí vị có thể
dạy một con vẹt nói được tiếng người, thực vậy, Đức Chúa Trời khiến một con lừa
nói được tiếng người kìa! Có nhiều bài giảng cho từng cơ hội sẵn có để rao giảng
từ chữ một, quí vị có thể tải xuống từ mạng Internet – nhưng đâu là các tiên
tri rao giảng cho Đức Chúa Trời, đồng đi với Đức Chúa Trời, nhất trí với Đức
Chúa Trời, nói thay cho Đức Chúa Trời vì họ đã lắng nghe từ Đức Chúa Trời? Tôi
tin chúng ta có một sự thiếu hụt về những người nam người nữ nói thay cho Đức
Chúa Trời – vì có một ít người thực sự đồng đi với Đức Chúa Trời! Ngay trước
khi nổ ra cơn phấn hưng ở Hebrides, Mục sư Duncan Campbell gặp một vị Mục sư tại
bến tàu Lewis cùng hai nhân viên trong văn phòng của ông. Y như lúc ông ông bước
ra khỏi tàu, có một trưởng lão đến bên ông rồi đối mặt ông với mấy lời như thế
nầy đây: 'Ông Campbell, tôi có thể hỏi ông câu nầy
không: ông có đồng đi với Đức Chúa Trời không?' Mục sư Duncan Campbell đáp:
'Ồ, đây là những người chuyên kinh doanh, những
người e sợ có bàn tay lạ chạm vào Hòm Giao Ước'.
Tối nay, tôi có thể hỏi
quí vị: Hỡi Cơ đốc nhân: có phải quí vị đồng đi với Đức Chúa Trời không?
Quí vị đáp: Ông nói gì thế? Đồng đi với Đức
Chúa Trời ư?'...
Tối
nay tôi có thể hỏi quí vị, hỡi Cơ đốc nhân: có phải quí vị đồng đi với Đức Chúa
Trời không? 'quí vị đáp: Ông nói gì
thế, đồng đi với Đức Chúa Trời ư?' Phải, tôi chưa để thì giờ ra để bước vào việc ấy
– có nhiều bài giảng, có thể là một loạt bài giảng nữa kìa! Chúng ta được truyền
cho ‘phải bước đi
trong sự sáng như Ngài là sự sáng', xưng tội, đấy là một phần trong những gì đúng
là đồng đi với Đức Chúa Trời – cứ thế. Chúng ta được truyền cho phải 'ăn ở cách thận trọng', nghĩa là ăn ở cách
khôn khéo, cẩn thận, chớ không phải như kẻ dại. Có nhiều việc có thể nói cho
chúng ta biết thể nào là đồng đi với Đức Chúa Trời, nhưng tôi muốn nhắm vào
phân đoạn Kinh thánh tối nay, chương 3 và câu 3, Amốt nói: 'Nếu
hai người không đồng ý với nhau, thì há cùng đi chung được sao?'. Đồng đi với Đức Chúa
Trời là phải ở trong sự nhất trí với Đức Chúa Trời, và nếu quí vị muốn nhận
lãnh gánh nặng của Đức Chúa Trời – và có thể quí vị không muốn, vì đấy là một
việc rất đau khổ và không thích nghi để tiếp nhận từ Đức Chúa Trời vào mọi thời
điểm – nhưng nếu quí vị muốn có mối tương giao với Đức Chúa Trời, giống như Amốt,
vì dân sự của Đức Chúa Trời và vì xứ sở của chúng ta; nếu quí vị nhìn qua bên
kia sự nông cạn, dường như mọi sự cứ hiển hiện như thế, và nhìn thấy mọi việc
theo cách mà Đức Chúa Trời đang nắm giữ chúng – đấy là cách nói tới sự mặc thị,
để nhìn thấy mọi việc theo cách mà chúng vốn thực có – và nếu quí vị phải trình
với Đức Chúa Trời về thế hệ nầy, và không những tôi đang nói tới các nhà truyền
đạo vì mọi người trong chúng ta đều đang đồn nhảm về Tin Lành, hết thảy chúng
ta, như chúng ta đã nghe sáng nay, được dùng để nói tới Đức Chúa Jêsus Christ; và
nếu chúng ta muốn tạo ra một cái chạm vào ngày nầy và thế hệ trong đó chúng ta đang
sinh sống, chúng ta phải đồng đi với Đức Chúa Trời – và có nghĩa là chúng ta phải
nhất trí với Đức Chúa Trời!
Có
thể là quí vị chưa hiểu trọn những gì tôi đang trình bày tối nay. Tôi nhớ cách đây
mấy năm, tôi có đặc ân gặp gỡ Mục sư Rex Mathie tại nhà tôi, ông đang rao giảng
trên toà giảng. Tôi có thì giờ trao đổi cách mật thiết với ông, và một trong những
thắc mắc cứ dò xét lòng tôi lúc bấy giờ là sự đầy dẫy Đức Thánh Linh là như thế
nào!?! Tôi hỏi ông ấy: 'Ông nói sao về sự đầy dẫy
Đức Thánh Linh? Đâu là kinh nghiệm cụ thể, duy trì sự đầy dẫy ấy hàng ngày
trong cuộc sống mỗi ngày của ông?' Ông đáp: 'David ơi,
tôi tin sự đầy dẫy Đức Thánh Linh là mặt kia của đồng tiền địa vị Chủ Tể của Đức
Chúa Jêsus Christ', và đây là cách mà ông trình bày việc ấy với tôi: 'David ơi, khi ông và Chúa Jêsus không tranh luận về bất cứ điều
chi, thì ông sẽ được đầy dẫy Đức Thánh Linh'. Có phải hai người có thể cùng đi với
nhau một khi họ đồng ý với nhau không? Tôi tự hỏi, ở đây tối nay có phải quí vị
và Chúa Jêsus đang tranh luận về một việc gì đó chăng? Hai người có thể đồng đi
với nhau nếu họ không đồng ý với nhau chăng?
C.T.
Studd trên một lần về nghỉ phép, ông quyết định đến dự hội nghị Keswick. F.B.
Meyer là diễn giả trong dịp đó, và người ta yêu cầu C.T. Studd lên diễn đàn rồi
đưa ra tường trình khoảng 15 phút về công việc của ông ở châu Phi. Ông đã tường
trình theo yêu cầu đó, có một việc đáng kinh ngạc đã xảy ra trong buổi nhóm ấy:
Đức Chúa Trời hạ cố. Một ý thức về Thánh Linh của Đức Chúa Trời đầy dẫy nơi
nhóm lại, và có một sự tan vỡ giáng trên hội chúng, và dân sự bắt đầu khóc lóc
khi ông thổ lộ cho họ thấy kinh nghiệm của ông trong sự hầu việc Chúa ở đại lục
lớn lao kia. Khi ông bước xuống khỏi toà giảng, F.B. Meyer, thực sự là ông cũng
không biết phải làm gì khi ấy. Ông không thể giảng được. Sau buổi nhóm Meyer đến
tìm Studd, và ông chỉ thốt ra có ba từ với ông ấy: 'What is
it?' [Chuyện gì thế?] Ông muốn nói: 'Chuyện gì đã xảy ra vậy?
Sao ông làm được việc ấy chứ?' – tất nhiên là không phải ông ấy đâu, mà là Đức
Chúa Trời. Đây là những gì C.T. Studd nói với F.B. Meyer, một nhà chú giải và
truyền đạo lỗi lạc về Lời của Đức Chúa Trời, ông không thể nói chi khác tại Hội
nghị Keswick, còn C.T. Studd, vị giáo sĩ tan vỡ kia, đã nói: 'Có phải ông đã dâng hết mọi chìa khoá của cuộc đời ông cho
Đức Chúa Jêsus Christ chăng?' Có phải ông biết điều ấy có nghĩa gì rồi không?
Giống như mấy cái chìa khoá nhà cửa của ông, từng phòng một, có phải đã dâng từng
chi tiết, từng chỗ kín nhiệm cho Đức Chúa Jêsus Christ, để Ngài làm cho nó được
đầy dẫy không?
Sự phán xét sẽ đến trực tiếp
liên quan với tội lỗi và sự tái phạm của họ,
và vì họ đã bất chấp Lời của
Đức Chúa Trời...
Meyer
nhận ra rằng ông đã không hề làm việc ấy, rồi buổi tối hôm ấy, sau khi hội nghị
xong, một mình ông đến với Đức Chúa Trời rồi bắt đầu dâng hết mọi chìa khoá cho
Ngài. Ông đã dâng chìa khoá gia đình, ông đã dâng chiếc chìa khoá của cải, ông
dâng chìa khoá tương lai và sức khoẻ của ông, rồi ông tìm cách làm theo Hêbơrơ 12
những gì chúng ta được kêu gọi phải lo làm: gạt qua một bên từng thứ tội lỗi, và
gánh nặng vương vấn chúng ta, giữ chúng ta ở ngoài cuộc chạy – nhưng có một
chìa khoá trong cuộc sống của F.B. Meyer là một nan đề thực sự chưa dâng. Quí vị
có biết chìa khoá đó là gì không? Đó là chìa được lòng người trong vai trò một
nhà truyền đạo, đây là tiếng tăm của ông là một nhà chú giải Lời của Đức Chúa
Trời – ông chưa dâng chiếc chìa khoá đó! Ông đã nghe Thánh Linh của Đức Chúa Trời
phán cùng ông trong giây phút ấy, trong cơn khủng hoảng đó, và Đức Chúa Trời
phán: 'Dâng mọi sự hay chẳng dâng gì hết! Vâng phục từng
phần là sự bất tuân'. Giống như Giacốp, ông đã vật lộn với Đức Chúa Trời, và ông đã
tan vỡ rồi ông phó dâng tiếng tăm mình và Đức Chúa Trời đã đến gặp gỡ ông!
Cho
phép tôi hỏi quí vị tối nay: có phải quí vị đã dâng hết mấy cái chìa khoá của
cuộc đời quí vị cho Chúa chưa? Đấy là ý nghĩa của đồng đi với Đức Chúa Trời, ở
trong sự nhất trí với Ngài, chớ không phải ở trong sự tranh luận với Ngài về bất
cứ việc gì. C.T. Studd và F.B. Meyer đã trở thành đôi bạn vĩ đại sau sự cố đó, và
họ chỉ gọi nhau 'C.T.' và 'F.B.'. C.T. về sau đến dự hội nghị khác ở Keswick gặp F.B. Meyer một
lần nữa là diễn giả, và họ đã chia sẻ một túp lều với nhau. Lúc sáng sớm F.B. bị
C.T. đánh thức trên hai đầu gối với ngọn nến cùng quyển Kinh thánh đang mở ra, và
ông đã bật khóc. F.B. Meyer nói với ông ấy như sau: 'Có chuyện
gì vậy anh? Anh đang làm gì thế?', rồi hai hàng nước mắt chảy dài trên gò má, ông
nói: 'Chúa phán cùng tôi sáng nay khi tôi thức giấc,
và Ngài phán 'Nếu ngươi yêu mến ta,
hãy giữ các Điều răn ta', và có nhiều điều mà tôi
không vâng theo!' – đấy là C.T. Studd! Lý do để ơn phước của Đức Chúa Trời giáng
trên đời sống ông, ấy là ông đã đồng đi với Đức Chúa Trời, có nghĩa là ông đã ở
trong sự nhất trí với Đức Chúa Trời.
Họ
đang thắc mắc Amốt là tiên tri của Đức Chúa Trời, sứ điệp của ông nói tới sự
phán xét, và ông nói với họ: 'Cái điều đáng được biện
minh là vì sự tuyển chọn các ngươi, Đức Chúa Trời mong mõi nhiều nơi các ngươi,
sứ mệnh của tôi là một tiên tri, điều nầy là chắc chắn. Tôi đã đồng đi với Đức
Chúa Trời, và tôi đang ở sự nhất trí với Đức Chúa Trời, đấy là lý do tại sao
tôi đã nghe thấy từ Đức Chúa Trời – còn các ngươi thì không'. Những gì ông thốt ra
thật có linh nghiệm nhiều, thổi ra tiếng kèn phán xét nầy: có những hậu quả khi
các ngươi từ chối những tiên tri được ủy thác của Đức Chúa Trời, khi các tiên
tri của Ngài kêu lên: 'Hãy nghe Lời nầy!', thì các ngươi không chịu
nghe. Ở câu 3 cho đến câu 8, chúng ta đọc đi, vị tiên tri nói rất mạnh mẽ: 'Sự phán xét giáng xuống không phải là không có lý do' – và nếu quí vị nhìn
vào những minh hoạ nầy, hết thảy chúng đều có nhân là quả. Ông đưa ra bảy câu hỏi
nhân quả tỏ ra cho dân sự nầy thấy sự phán xét sẽ đến trực tiếp liên quan đến tội
lỗi và sự tái phạm của họ, và vì họ đã bất chấp Lời của Đức Chúa Trời.
Tại
sao Amốt phải giảng một sứ điệp nói tới sự phán xét? Họ là tuyển dân của Đức Chúa
Trời, ông là vị tiên tri được Đức Chúa Trời chỉ định, nhưng có một việc khác nữa:
phản ứng của thế giới ở chung quanh Israel là một lý do cho thấy tại sao sự
phán xét sẽ xảy đến. Hãy nhìn vào các câu 9 - 10: 'Hãy rao truyền ra trong
các đền đài Ách-đốt và trong các đền đài của đất Ê-díp-tô, và nói rằng: Các ngươi
khá nhóm lại trên các núi của Sa-ma-ri; hãy xem nhiều sự rối loạn lớn lao ở đó,
và những sự bạo ngược giữa nó. Đức Giê-hô-va phán: Chúng nó không biết làm sự
ngay thẳng; chúng nó chất chứa của hung dữ và cướp giựt ở trong các đền đài
mình'''. Nếu quí vị nhìn vào
câu 9, những gì Amốt đang làm là đây: ông đang kêu gọi các dân Ngoại ở chung
quanh, Áchđốt là xứ Philstia, dân Philitin, và quí vị biết Aicập ở đâu rồi, và
ông đang kêu gọi họ làm chứng nghịch lại Vương quốc phía Bắc với thủ đô của nó
là thành Samari, được nhắc tới ở đó phần cuối của câu 9, ông kêu gọi họ làm chứng
nghịch cùng thành Samari vì tội lỗi của Israel lớn đến nỗi thậm chí còn kinh khủng
hơn những kẻ dân Ngoại tà giáo thờ lạy hình tượng nữa! Liệu Đức Chúa Trời có được
xưng công bình trong việc giáng sự phán xét trên Israel không? Có đấy, không những
vì cớ sự tuyển chọn họ và vì cớ sự ủy thác của vị tiên tri, mà vì cớ phản ứng của
thế giới: đúng là một trò hề khi thế gian bắt quả tang Cơ đốc nhân và hội thánh
đang ở trong tội lỗi!
đúng là một trò hề khi thế gian bắt quả tang Cơ đốc nhân và hội
thánh đang ở trong tội lỗi!
Kinh
thánh chép, tình trạng tà dâm của David với Bátsêba đã cung ứng cơ hội lớn lao
cho kẻ thù của Chúa phải phạm thượng. Tôi đã nhắc tối qua hội thánh tại thành
Côrinhtô - ồ, họ là những thánh đồ được kêu gọi của Đức Chúa Trời ở chương 1, và
họ là một hội thánh rất lôi cuốn, họ được ơn nhiều hơn bất kỳ hội thánh nào
khác, như đã có lúc bấy giờ. Tuy nhiên, họ lại say sưa quanh bàn Tiệc Thánh của
Chúa, họ đưa nhau ra toà và giặt áo xống bẩn thỉu của mình trong chỗ công khai,
chúng ta đọc ở I Côrinhtô 5:1: 'Có tin đồn ra khắp nơi rằng trong anh em có sự dâm loạn, dâm
loạn đến thế, dẫu người ngoại đạo cũng chẳng có giống như vậy: là đến nỗi trong
anh em có kẻ lấy vợ của cha mình!' – loạn luân và tà dâm. Quí vị có thấy điều chi đang
xảy ra ở đây trong hội thánh không? Đúng là một bản cáo trạng, thế gian có thể
nhìn vào rồi nói: 'Những Cơ đốc nhân nầy đang
chơi trò gì vậy? Hãy nhìn vào mọi điều họ đang làm xem!' Quí vị nói cho tôi biết
tối nay, quí vị nói cho tôi biết rằng đấy không phải là điều mà thế gian đã nói
riêng cho năm ngoái! Đúng là một cáo trạng khủng khiếp có thể được thấy ở câu
10, một bản dịch đặt ở phần đầu câu nầy như sau: 'Họ không
biết cách làm điều phải'. Hãy tưởng tượng một câu nói thể ấy về dân sự của Đức Chúa
Trời xem: họ không biết cách làm điều phải!
Sự
tham lam, hình tượng, họ đã biến thái theo từng cách có thể tưởng tượng được, họ
đã đâm nghiện đối với sự giàu có và đủ thứ tội lỗi. Họ đã sống giống như nhà
nông giàu có mà chúng ta có thể áp dụng nói tới hạng người chưa tin Chúa: 'Ta sẽ phá những kho vựa rồi xây những kho vựa lớn hơn', còn Đức Chúa Trời
phán: 'Hởi kẻ dại! Đêm nay linh hồn ngươi bị đòi lại,
thì những thứ đó sẽ thuộc về ai?' Nếu quí vị có mặt ở đây tối nay và quí vị chưa được
cứu, quí vị cần phải ngồi lại đây – và tôi biết tôi sẽ rao giảng chủ yếu là cho
những Cơ đốc nhân, song mọi điều nầy đều được áp dụng cả cho quí vị đấy: ngày
phán xét đang tới đến! Quí vị sẽ trình sổ với Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời, dù
Ngài là một Đức Chúa Trời yêu thương, Ngài đã sai Cứu Chúa hạnh phước, là Chiên
Con của Đức Chúa Trời đến tại đồi Gôgôtha, rồi Ngài chịu thương khó trong chỗ của
quí vị, gánh lấy sự xấu hổ của quí vị, gánh lấy địa ngục của quí vị và cơn thạnh
nộ của quí vị để tha thứ cho quí vị – nếu quí vị không chịu ăn năn và tin đạo
Tin Lành, quí vị sẽ có cơn thạnh nộ ấy thăm viếng trên quí vị cho cả cõi đời đời!
Tuy nhiên, hội thánh phạm tội, giống như hội thánh Laođixê họ phải trả lời với Đức
Chúa Trời, là Đức Chúa Trời Chí Cao nầy, trong Đức Chúa Jêsus Christ – Vị Quan
Án –Thầy Tế Lễ là Đấng mà chúng ta nhìn thấy trong các chương mở đầu của quyển
sách với đôi mắt rực lửa, ánh mắt có tia X, với hai chơn như đồng sáng, hai bàn
chơn của sự phán xét – và Ngài sẽ bước đi như một Quan Án-Thầy Tế Lễ ở giữa cây
đèn 7 ngọn tiêu biểu cho 7 Hội thánh ở Á châu, và Ngài sẽ làm gì chứ? Ngài sẽ đánh
giá họ, Ngài sẽ cân họ, rồi Ngài phán như vầy đây: 'Ai có tai để
nghe hãy nghe, hãy nghe Đức Thánh Linh phán với hội thánh' – giống như Amốt: 'Hãy nghe Lời nầy!' Đức Chúa Trời đang gầm
rống giống như sư tử – có phải quí vị đang lắng nghe Ngài không? Laođixê đã
nói: 'Ta giàu, ta nên giàu có rồi, không cần chi nữa', còn Chúa Jêsus phán: 'ngươi
không biết rằng mình khổ sở, khốn khó, nghèo ngặt, đui mù và lõa lồ'.
Đức
Chúa Trời sẽ phán xét những kẻ nào, Amốt dạy, sử dụng bạo lực và sự bất công để
kiếm của cải và quyền lực, câu 10. Ở câu 11, chúng ta đọc thấy Israel sẽ rơi
vào tay kẻ thù, và tất nhiên đã xảy ra vào năm 722TC khi quân Asiri ụp đến. Họ đã
yên nghỉ trên những giường ngà trong các đền đài đắt tiền, nhà cửa mùa hè và
nhà cửa mùa đông của họ sẽ vuột khỏi tay họ, rồi họ sẽ bị dẫn đi như những tù
binh chiến tranh. Kẻ giàu sẽ chẳng còn có nhà cửa chi hết, mặc dù họ có nhiều
nhà cửa; và sự an ninh tôn giáo do con người lập nên tại Bêtên, ở đó họ đã dựng
lên hệ phái tôn giáo của riêng họ, nếu quí vị thích, nó sẽ bị quét sạch hết. Hãy
hình dung điều chi sẽ xảy ra ở đây – sự ấy tương đương với những gì Êsai đã nói
ở Êsai 63:10, hãy nghe đây: 'Song họ đã bội nghịch, đã làm cho Thần
thánh Ngài buồn rầu, Ngài bèn trở làm cừu thù với họ, và chính mình Ngài chinh
chiến cùng họ'. Sẽ chẳng có chút gì còn lại trong xứ Israel, câu 12 cho
chúng ta thấy: 'Như kẻ chăn chiên chỉ gỡ được hai giò hay
một tai ra khỏi họng sư tử, thì những con cái Y-sơ-ra-ên, là những kẻ ngồi tại
Sa-ma-ri nơi góc giường và trên thảm của Đa-mách, cũng sẽ được cứu cách như vậy'. Hãy nhớ ai là sư tử ở đây,
chính là Đức Chúa Trời – rồi trong sách Xuất Êdíptô ký luật pháp đặt ra rằng nếu
người chăn mất một con chiên, người ấy phải đền con chiên đó. Cách duy nhứt người
ấy sẽ không phải đền con chiên ấy là phải chứng minh rằng nó đã bị giết bởi một
con thú dữ, và người ấy phải chứng minh bằng cách đem về nhà một số chi thể của
con chiên chưa bị cắn nuốt – mà người đã rút ra khỏi hàm sư tử một cánh tay hay
thứ chi đó giống như vậy. Amốt đang nói: 'Đức Chúa
Trời đang gầm rống nghịch lại dân sự mình giống như một con sư tử, và dân tộc sẽ
chẳng ăn năn, họ sẽ chẳng chịu nghe – và không bao lâu nữa sẽ chẳng có gì còn lại
trừ ra số dân sót mà thôi'.
Tôi có gánh nặng ở đây tối
nay, tôi có gánh nặng cho Ireland và cho Vương quốc Anh.
Quí bạn ơi, nếu hội thánh
không chịu ăn năn sẽ có sự phán xét!
Giờ
đây, tôi sẽ đưa ra một phát biểu – và quí vị không phải đồng ý về phát biểu đó,
nhưng tôi tin việc ấy là sự thật. Từ nhận định của con người – hãy đánh dấu đi,
từ nhận định của con người – hội thánh duy nhứt từng là một thế hệ đối với sự
tuyệt diệt. Từ nhận định của con người hội thánh từng là, ở bất kỳ địa phương
hay địa lý nào, một thế hệ đối với sự tuyệt diệt. Có người nói: 'Hội thánh liên kết với tinh thần của thời đại sẽ trở thành
goá phụ trong đời hầu đến'. Nếu hội thánh không chịu nghe tiếng của Đức Chúa Trời, nếu
hội thánh không đồng đi cùng Đức Chúa Trời, nếu hội thánh không nhất trí với Đức
Chúa Trời, có lẽ hội thánh, dù là ở địa điểm thuộc địa lý nào, đang hướng tới sự
hủy diệt. Tôi biết Chúa Jêsus đã phán: 'Ta sẽ xây
dựng hội thánh, và các cửa âm phủ không thắng được hội đó' – nhưng cho phép tôi
nói cho quí vị biết điều nầy: các hội thánh ở Tiểu Á mà Chúa Jêsus đã nói tới, phần
nhiều trong số họ đã không còn nữa trong khoảng thời gian mấy năm vì họ không ăn
năn. Đức Chúa Trời đang gây dựng hội thánh của Ngài, có phấn hưng ở Trung hoa
và nhiều phần khác trên thế giới, Đức Chúa Trời đang làm việc ấy – nhưng tôi có
một gánh nặng tối nay ở đây, tôi có một gánh nặng cho Ireland và cho Vương quốc
Anh. Quí bạn ơi, nếu các hội thánh không ăn năn sẽ có sự phán xét đấy!
Mục
sư C.H. Spurgeon đã nói tới tình trạng thế gian trong hội thánh, hãy nghe, tôi
sắp kết thúc đây: 'Tôi tin rằng có một lý
do cho thấy tại sao hội thánh của Đức Chúa Trời trong thời điểm hiện tại nầy lại
có quá ít ảnh hưởng đối với thế gian' – đấy là trong thời của Spurgeon - 'sở dĩ như thế là vì thế gian có nhiều ảnh hưởng trên hội
thánh'.
Ông nói thêm: 'Hãy chỉ ngón tay của
quí vị vào bất kỳ thời kỳ thịnh vượng nào trong lịch sử hội thánh, thì tôi sẽ
tìm ra một chú thích bên lề đọc như sau: 'Trong kỷ nguyên nầy, con người sẽ
nhìn thấy chỗ mà hội thánh bắt đầu và nơi thế gian kết thúc. Không hề có những
thời điểm tốt lành khi hội thánh và thế gian hiệp nhau trong cuộc hôn nhân. Hội
thánh càng phân biệt đối với thế gian trong mọi hành động của nó, sự làm chứng
của hội thánh càng thực hơn cho Đấng Christ, và sự làm chứng của hội thành càng
linh nghiệm hơn khi chống cự lại với tội lỗi'. Phát biểu tại Thần học viện quốc gia
thuộc hệ phái Southern Baptist, George Gallup, ông là người thực hiện những thăm
dò của viện Gallup, đã nói với các cấp lãnh đạo của giáo hội đó như sau: 'chúng tôi thấy có ít sự khác biệt trong cư xử đạo đức giữa
người đi nhà thờ và những kẻ không sống theo tôn giáo. Cấp độ nói dối, lừa đảo
và trộm cắp tương tự nhau trong cả hai nhóm. Tám trong mười người Mỹ tự xem
mình là Cơ đốc nhân', Gallup nói: 'tuy nhiên, chỉ có phân
nửa họ có thể nhận ra nhân vật nào đưa ra Bài Giảng Trên Núi, và số ít người
kia có thể nhớ được 5 trong 10 Điều Răn. Chỉ có 2 trong 10 người nói họ sẽ bằng
lòng chịu khổ vì đức tin của họ'. Donald Gray Barnhouse, một nhà truyền đạo lỗi
lạc một thời, đã nói như vầy: 'Cách đây mấy năm, các nhạc
sĩ lưu ý rằng những cậu bé đưa thư ở phần nào đó trong thành phố Luân đôn hết
thảy đều huýt sáo khi chúng lo liệu công việc của chúng. Việc ấy được nói tới,
và có người cho rằng sở dĩ như thế là vì tiếng chuông của tu viện Westminster nghe
yếu quá. Có gì đó sai trái với mấy cái chuông và chúng đã lạc điệu rồi, và mấy
cậu bé kia không biết có gì sai với hồi chuông, rồi hoàn toàn tỉnh bơ đối với
việc ấy'.
Hội
thánh kết thân với tinh thần của thời đại sẽ trở thành goá phụ trong đời hầu đến.
Có phải quí vị đang đồng đi với Đức Chúa Trời không? Có phải quí vị đang nhất
trí với Đức Chúa Trời không? Có phải quí vị đang lắng nghe từ Đức Chúa Trời chăng?
Có phải quí vị đang thưa chuyện với Đức Chúa Trời? Chúng ta hãy cầu nguyện. Khi
chúng ta nhìn vào tình trạng vô mục đích của dân sự Đức Chúa Trời, họ đã lạc lối,
họ chẳng bước vào hướng nào cả vì họ không đồng đi với Ngài, trong những giây
phút kết thúc nầy, hãy phân tích tấm lòng của quí vị đi. Nếu quí vị bị hỏi bằng
câu mà người ta hỏi Duncan Campbell, quí vị sẽ đáp như thế nào? Ồ, quí bạn của
tôi ơi, quí vị đang tranh luận gì với Chúa Jêsus? Ai ở đây tối nay sẽ ổn định vấn
đề? Có thể có một người chưa được cứu sẽ không ăn năn về một tội lỗi đặc biệt
vì quí vị ưa thích nó – có phải quí vị ăn năn về tội ấy tối nay và nhận ra rằng
Chúa Jêsus sẽ ban cho quí vị quyền phép để thắng hơn tội lỗi ấy? Nhưng quí vị
phải đổi ý đi và để cho Ngài bước vào và thay đổi tấm lòng của quí vị. Hỡi tín đồ
tái phạm, có thể đó là việc trong đời sống quí vị mà quí vị ưa thích nó, và nó
có một đồn lũy ngay lúc bây giờ, một chỗ đứng trong đời sống của quí vị – liệu
quí vị tới đến tối nay, trong khi Thánh Linh của Đức Chúa Trời đang ngự trị tại
đây, và đang xử lý với dân sự, hãy nói: 'Xin Chúa
giúp con, con không thể tự cứu mình được! Nhưng lạy Chúa, con sẽ đồng đi với
Ngài, con chìa tay con ra đây' – như Bill đã hát trước đây - 'con chìa tay con ra, hãy nắm lấy nó và đồng đi với con'. Nhưng hãy đợi cho tới
chừng tôi bảo bạn: hết thảy chúng ta, hết thảy chúng ta đều cần phải ăn năn từng
ngày một, chúng ta cần phải chết mỗi ngày, chúng ta cần phải vác lấy thập tự
giá của mình rồi bước theo Ngài mỗi ngày.
Lạy Cha, con cầu xin tối nay Ngài sẽ làm một việc gì đó, một
việc siêu nhiên, một việc ó ý nghĩa và kết thúc trong tấm lòng con, trong mọi
lòng chúng con, trong gia đình chúng con, trong xứ sở chúng con. Ôi Chúa, chúng
con đang nghe thấy Ngài đang gầm rống, lạy Đức Chúa Trời của sự công bình, nguyện
chúng con đến gần đủ để lắng nghe Ngài. Amen.